Sonako Light Novel Wiki
Register
Advertisement
Lưu Pocket Xuất PDF
Pocket_Image.png Print_page.gif
Story1
“Này, trông cứ như những hạt tuyết ấy!”          

                                                                


Cô bé ấy đã nói thế, thấm thoát đã mười bảy năm rồi.


Khi đó chúng tôi còn là hai đứa học sinh vừa lên lớp sáu đang bước trên con phố hẹp dẫn về nhà. Xuân đến đã làm vô số nụ hoa anh đào nở rộ, những cánh hoa thi nhau nhảy múa theo một điệu nhạc vô thanh được cất lên từ những làn gió nhẹ, rồi khẽ phủ lên lớp nhựa đường đen kịt dưới chân chúng tôi một lớp chăn bông trắng hồng ấm áp. Cái lạnh giá của mùa Đông đã qua đi và bầu trời lại được dịp treo lên tấm phông màu xanh vĩ đại của mình. Cách chúng tôi không xa là con đường cái có dải đường sắt Odasaki cắt ngang qua. Hôm ấy chúng tôi không được nghe tiếng ồn ã thường thấy của những chiếc xe lửa ngoại trừ vài chú chim đang còn say sưa hát vang bài ca mừng xuân về. Quả thực ngoài chúng tôi ra thì không có ai ở đây cả.


Nếu ví khung cảnh bấy giờ như tranh vẽ thì dù vắng lặng thế nào tôi cũng thấy đó là một bức tranh xuân…


Đúng thế, ít ra thì trong trí nhớ đã phai nhạt ít nhiều của tôi thì ở cái thời khắc ấy, cảnh vật cũng có thể coi như là một chuỗi hình ảnh đẹp được bõ công thu thập và sắp xếp hợp lí lại. Những lúc cố gắng lượm lặt mấy cái hoài niệm đã tản mát  tôi lại luôn có cảm giác như mình, đang ở khoảng cách khá gần, mà chăm chú quan sát. Tôi quan sát cậu bé vừa tròn mười một đi cùng với một cô bé bằng tuổi và cũng cao ngang cậu. Tôi nhìn hai thân hình bé nhỏ ấy chạy ra xa, những luồng nắng phủ khắp mặt đất ôm lấy chúng đầy thân thiện. Cứ thế tôi lặng lẽ ngắm chúng từ phía sau. Hầu như lúc nào cô bé cũng là người chạy lên trước khiến cậu bé đuổi theo sau có chút gì đó thoáng buồn, và nó cũng làm người đã lớn như tôi đôi lúc cũng trầm mặc suy tư.


Khó có thể quên được cái cách Akari đã mô tả cánh hoa anh đào trông như những bông tuyết ấy, mặc dù tôi chưa bao giờ nhìn nhận chúng như vậy. Khi ấy với tôi hoa chỉ là hoa, và tuyết thì vẫn chỉ là tuyết.







“Này, trông cứ như những hạt tuyết ấy!”


“Thế à? Ừm mà trông cũng giông giống.”


“Thôi bỏ đi!”. Sau câu nói có phần hơi dỗi hờn ấy, cô bé Akari bước lên trước hai bước rồi bất giác quay lại nhìn tôi. Với mái tóc nâu dài phản chiếu những tia nắng ban mai đầy óng ánh, cô bỗng nói một điều kì lạ:


“Nè, tớ nghe nói chúng rơi với vận tốc 5 cm/s đấy!”


“ ‘Chúng’ là cái gì?”


“Cậu đoán xem.”


“Tớ không biết.”


“Coi nào, suy nghĩ tí xem, Takaki-kun!”[1]


Tôi là tôi vẫn chẳng biết Akari đang nói về cái gì,nên tôi quyết định thật thà nói với cô ấy một lần nữa là tôi không biết.


“Đó là những cánh hoa anh đào, chúng rơi xuống đất với vận tốc 5 cm/s.”


Năm centimet một giây à, quả là điều kì lạ.


“Ồ, Akari biết nhiều thật đấy!” Tôi hào hứng nói với cô ấy.


“Hihi”, Akari mỉm cười.


“Tớ còn biết nhiều thứ khác nữa, như là những giọt mưa rơi với vận tốc 5m/s, còn mây thì chậm hơn nhiều, chúng chỉ rơi mỗi giây 1 cm mà thôi.”


“Mây? Ý cậu là mây trên trời á?”


“Ừ, dĩ nhiên là mây trên trời rồi!”


“Mây là cũng rơi ư? Chẳng phải mây chỉ trôi bồng bềnh trên trời thôi sao?”


“Mây không chỉ ‘trôi’ đâu, chúng có rơi đấy nhé! Mây là do nước bị bốc hơi ngưng tụ lại mà ra. Cậu thấy mây bồng bềnh trên trời bởi vì chúng quá lớn và quá xa nơi đây. Càng hấp thụ hơi nước bao nhiêu thì những đám mây sẽ càng to ra bấy nhiêu, để rồi lại rơi xuống đất với hình dạng của các hạt mưa hay những bông tuyết.”


“Ồ!”, tôi trầm trồ hết nhìn những cành hoa anh đào lại ngước lên những đám mây đầy phấn khời. Giọng nói dịu dàng và đầy hào hứng của Akari tự dưng làm tôi tin rằng cái vận tốc 5 cm/s ấy như là một phần quan trọng của vũ trụ vậy


”, Akari nhại lại trêu tôi, rồi bất chợt chạy vút đi như một vận động viên đang phi nước rút về đích.


“Này Akari đợi tớ!”. Vừa la tôi vừa chạy theo cô ấy.







Hồi đó cứ có dịp cùng về là tôi và Akari lại chia sẻ cho nhau đủ thứ mà hai đứa mới biết được, từ những quyển sách chúng tôi mượn trong thư viện cho đến các chương trình khoa học trên TV. Phải nói thật là hầu hết những kiến thức ấy chả có gì quan trọng đối với 2 đứa con nít cả - điền hình như cái tốc độ rơi của hoa anh đào đấy. Rồi vũ trụ hình thành cách đây bao lâu, bạc nóng chảy ở nhiệt độ nào. Có thể nói chúng tôi chẳng khác nào một cặp sóc nâu ráo riết tìm kiếm thức ăn chuẩn bị cho kì ngủ đông, hay như những nhà thám hiểm vừa dong buồm đi khắp đại dương vừa cố gắng thông thạo thuật chiêm tinh nhắm thâu tóm bầu ánh sáng ý nghĩa của vô số ngôi sao lan tỏa khắp thế giới này vậy. Hồi đó chúng tôi có niềm tin kì lạ rằng những tri thức vụn vặt ấy sẽ có lúc hữu ích cho cuộc sống sau này của mình.


Vâng, đó là lí do vì sao tôi và Akari biết rất nhiều! Chúng tôi nhớ rõ các vì sao lớn nằm ở đâu vào mỗi mùa trong năm, biết được vị trí và độ sáng cần thiết để có thể quan sát thấy sao Mộc cùng “chiếc nhẫn”[2] tuyệt đẹp của nó. Mấy ai bằng tuổi chúng tôi đã hiểu được vì sao trời lại có màu xanh và vì sao Trái Đất có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nào? Mấy ai biết được giống người Neanderthal[3] đã bị tuyệt chủng vào thời gian nào và tên của bao nhiêu loài sinh vật cổ đại đã tuyệt diệt vào cuối kỉ Cambri? Những thứ càng to lớn, càng xa vời bao nhiêu càng làm tôi và Akari thêm hào hứng thảo luận bấy nhiêu..


Qua tháng năm kí ức đã ít nhiều phai nhạt nhưng quá khứ của tôi là thế đấy. Giờ đây những tri thức ấy đối với tôi chỉ đơn thuần là những sự-thật-khoa-học mà mình đã từng quan tâm mà thôi. Từ lần đầu gặp gỡ cho đến lúc chia tay Akari, tôi vẫn luôn tin rằng chúng tôi tuy hai mà một. Chúng tôi đã chơi thân với nhau suốt ba năm – từ đầu năm lớp bốn cho đến hết lớp sáu. Đều vì công việc của ba mà chúng tôi phải chuyển nhà khá thường xuyên, để rồi rốt cuộc lại vào cùng một trường tiểu học ở Tokyo. Tôi từ Nagano chuyển đến Tokyo khi vừa lên lớp ba, năm sau thì Akari chuyển tới.


Cả hai đứa có khá nhiều điểm chung : đều cực chán môn Thể dục và giống như mấy ông bà già chỉ thích đọc sách và trò chuyện. Hồi đó ba tôi làm việc ở ngân hàng còn gia đình thì sống trong khu căn hộ sở hữu bởi một công ty nào đó. Tôi nghĩ nhà Akari cũng vậy, vì hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau và cùng về nhà. Và hồi đó cứ mỗi khi muốn tâm sự thì chúng tôi sẽ sẵn sàng bỏ ra vài giờ đi khắp phố Shizuoka để hàn huyên…


Đến tận lúc này tôi vẫn nhớ như in hình ảnh cô bé Akari đầy lo lắng và căng thẳng thế nào khi đứng trên bục giảng lớp tôi vào ngày đầu tiên nhập hoc. Cô bé đứng đó, đôi tay chắp đằng trước níu chặt lấy nhau, từ mái tóc suôn dài đến bờ vai nhỏ nhắn của cô đều sáng lên nhờ những tia nắng mùa xuân đang cố gắng len qua từng ô cửa sổ, tạo ra một cái bóng cũng nhỏ xíu như cái thân mình mảnh mai kia vậy. Bờ môi cô đỏ ửng lên vì bị mím chặt lại, đôi mắt không hề chớp lấy cái nào thì mở to và dường như ánh nhìn của nó chỉ dán vào một điểm cố định nào đó trong phòng. Cô bạn học mới khiến tôi nhớ lại chính mình, năm ngoái cũng từng rụt rè, e sợ khi đứng trước những người xa lạ như thế nào. Dường như ngay lập tức tôi cảm thấy mình gần gũi với cô ấy đến lạ lùng, và sự thực thì tôi là người đầu tiên bắt chuyện với Akari. Chúng tôi thân nhau rất nhanh.


Akari là người có lập trường và luôn nhất quyết bảo vệ lập trường ấy, nhưng hên là tôi và cô ấy hợp nhau khá nhiều về quan điểm. Chúng tôi cùng đồng ý rằng những người lớn lên ở Setagaya thường chững chạc hơn hẳn bạn đồng trang lứa, rồi không khí ở các trạm xe điện ngột ngạt thế nào, hay nước vòi có vị khó chịu ra sao. Tôi và Akari đều có vẻ ngoài nhỏ bé, yếu ớt lại hay bệnh nên những bất tiện trong đời sống gây nhiều khó khăn cho chúng tôi nhưng những người khác. Cũng vì thế mà thư viện là điểm đến ưa thích duy nhất của chúng tôi vào mỗi giờ ra chơi và sau giờ học.


Và tất nhiên, chẳng sớm thì muộn chúng tôi cũng vô tình trở thành “tâm điểm” của những trò trêu chọc của bọn bạn trong lớp. Công bằng mà nói thì cái cách tụi nó đùa cợt chúng tôi cũng vô tư và trẻ con như bao đứa nhóc hiếu động khác mà thôi. Nhưng với tôi, những trò quậy phá kia lại là quá sức chịu đựng và luôn khiến tôi thấy đau khổ. Nhưng phải đối mặt, phải nếm trải những nỗi đau ấy tôi mới biết rằng mình và Akari luôn cần có nhau. Chúng tôi luôn cần nhau biết chừng nào.


Có một kỉ niệm tôi nhớ khá rõ. Xảy ra vào một ngày kia, khi vừa từ WC tôi trở về lớp học thì thấy Akari đứng như trời chồng trước tấm bảng. Trên bàng có một hình vẽ từa tựa như cây dù có tên của tôi và Akari trên đó – một sản phẩm của tên nghịch ngợm nào đó muốn “ghép đôi” chúng tôi đây mà. Mấy đứa bạn ngồi dưới thi nhau vừa rủ rỉ bàn tán vừa nhìn chằm chằm vào tấm lưng của Akari. Cô ấy định lên bảng, nhưng có lẽ vì quá xấu hổ nên chỉ đi được vài bước đã dừng lại. Tôi ngẩn người ra nhìn Akari tội nghiệp cứ đứng ở đó như thế, rồi chẳng biết từ lúc nào tôi đã xộc thẳng vào lớp, cầm miếng mút xốp xóa sạch tất cả nội dung trên bảng. Đến khi nhận thức quay trở về tôi thấy mình đang nắm chặt tay Akari mà chạy, chạy thật nhanh ra khỏi lớp. Có thể nghe thấy những tiếng ồ à ngày càng náo nhiệt hơn nhưng tôi chẳng buồn quan tâm, cứ thế chỉ biết cắm đầu chạy. Đến tôi còn chẳng tin được mình lại “liều” đến thế, lần đầu được nắm bàn tay mềm mại của Akari làm tim tôi rộn ràng tới mức muốn văng khỏi lồng ngực. Chạy được một đọan thì cái thể trạng yếu ớt làm tôi choáng váng, mệt đến mức xém muốn ngất đi nhưng cũng thật là lạ. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy chẳng còn gì đáng sợ trên thế giới này nữa.


Tôi luôn biết rằng vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc sống, nhưng dù có là chuyển trường, thi cử, sống ở vùng đất mới, gặp gỡ những con người xa lạ hay bất cứ thứ gì khác, chỉ cần có Akari bên cạnh thì tôi tin rằng mình sẽ chịu được tất cả. Có lẽ còn quá sớm để nói lên từ “yêu”, nhưng khi ấy tôi thật sự mến Akari và dám chắc rằng cô ấy cũng đối với tôi như vậy. Ngày chúng tôi tay trong tay chạy ra khỏi lớp, tôi nhận ra tình cảm của mình dành cho Akari rõ rệt hơn cả.


Bên nhau chúng tôi dám tin rằng cả một thế giới rộng lớn và phức tạp này chẳng có đáng sợ chút nào hết!




Ba năm tiểu học cũng trôi qua. Chúng tôi quyết định sẽ thi vào cùng một trường sơ trung không xa nơi đây lắm. Tôi và Akari đều cùng cố gắng học thật chăm chỉ và nhờ đó chúng tôi ngày càng thân nhau hơn. Dần dần chúng tôi cũng thấy rằng mình “người lớn” hơn và sống nội tâm hơn trước – chúng tôi luôn tự thu mình vào một thế giới quan của mình mà tin rằng quả bóng nhỏ bé ấy sẽ chở che và là hành trang giúp chúng tôi vững bước trong cuộc sống. Học ở một ngôi trường mới, gặp những người bạn mới và chúng tôi sẽ lại có điều kiện khám phá nhiều hơn nữa thế giới tri thức bao la của nhân loại. Không ai bảo ai, chúng tôi cũng thầm mong những trải nghiệm mới mẻ ấy sẽ giúp mình thật sự xác định tình cảm dành cho nhau suốt bấy lâu. Khoàng cách giữa tôi và Akari, khoảng cách giữa chúng tôi và cuộc sống ngoài kia sẽ được thu hẹp lại. Rồi đây chúng tôi sẽ lớn hơn nữa, khỏe mạnh hơn nữa để cùng nhau tự do thực hiện ước mơ của mình.







Giờ đây tôi bắt đầu trăn trở. Phải chăng, hai đứa trẻ ngày ấy luôn ríu rít với nhau, đã cảm giác được rằng chúng rồi sẽ mất đi một điều gì đó? Rõ ràng là chúng yêu mến nhau, luôn mong ước được bên nhau mãi mãi. Nhưng vì đã từng phải chuyển đi nhiều lần, chúng biết rằng ước muốn của mình sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực. Chúng sợ điều tồi tệ ấy sẽ lại diễn ra. Đến tận bây giờ tôi mới nhận ra sao? Hai đứa trẻ ấy đã cố gắng trao cho nhau thật nhiều kỉ niệm đẹp, vì mai này có thể chúng sẽ phải nói lời chia tay mãi mãi…


Quả thật, đúng là tôi và Akari đã xa nhau, lời hứa cùng vào một trường đã không thành hiện thực. Vào một đêm Đông cuối năm chúng tôi học lớp sáu, cuộc điện thoại của Akari đã thông báo điều đó.


Trước giờ hiếm khi tôi và Akari trò chuyện điện thoại, thế nên việc Akari gọi đến, mà lại trễ như thế này (tôi nhớ là khoảng chín giờ tối) là thật bất thường. Vừa chạm tay vào chiếc điện thoại mẹ đưa, một cảm giác bất an kì lạ đã dâng lên trong tôi.


“Tớ xin lỗi, Takaki-kun.”, Akari nói với giọng thì thào nhỏ tí. Những từ ngữ được thốt lên sau đó càng làm rõ cái điều mà tôi không bao giờ muốn nghe và muốn tin.


Thế đấy, chúng tôi chắc chắn sẽ không vào cùng trường trung học. Ba Akari đã quyết định chuyển đến sống ở một thị trấn nhỏ phía bắc Kantou vì công việc. Giọng cô ấy run rẩy, cứ như có thể bật khóc bất cứ lúc nào. Ôi, thật không thể nào hiểu được! Hình như một mụ phù thủy độc ác nào đó vừa yểm bùa cho đầu óc tôi đóng băng lại, còn cơ thể thì bị mụ thiêu đốt bằng hàng trăm con quỷ lửa. Tại sao không là ai mà lại Akari cơ chứ. Tại sao phải chính là Akari nói mới được? Không thể nào hiểu nổi!


“Ơ… thế còn… trường Nishinaka? Cậu và tớ đã đậu rồi mà?” Rốt cuộc cơ miệng của tôi cũng hoạt động lại được.


“Ba tớ bảo… ông sẽ sắp xếp để tớ vào trường ở Tochigi. Tớ… tớ xin lỗi…”


Tôi có thể nghe rõ tiếng xe chạy vọng vào, vậy là Akari đang dùng điện thoại công cộng. Tôi ngồi bệt lên sàn tatami[2] mà co người lại, hai tay thắt chặt đầu gối. Dường như cái không khí lạnh lẽo của mùa Đông đã thâm nhập vào căn phòng ấm áp của tôi mà len lỏi vào từng kẽ ngón tay. Tôi không biết nói gì với Akari, nhưng cũng hiểu rằng mình cần nói một điều gì đó.


“Không, Akari không có lỗi gì hết…”


“Tớ đã nói là muốn ở lại với dì ở Katsushika, nhưng bố bảo rằng tớ còn nhỏ quá nên…”


Cảm nhận được Akari đang cố giữ cho mình đừng khóc khiến tôi không chịu nổi, chỉ muốn gạt phắt cái điện thoại đi. Để rồi, tôi đã không tự chủ được mà lớn tiếng “Tớ hiểu nãy giờ cậu nói cái gì rồi mà!”. Tiếng nấc nghẹn sau đó của Akari không kiềm chế được tôi.


‘Được rồi mà…” Tôi nhẹ giọng lại nhưng vẫn cương quyết. ”Xin cậu đừng nói gì nữa”


“Xin đừng nói nữa…”. Tôi lặp lại liên tục trong một nỗ lực vô vọng kiềm chế những giọt nước mắt. Tại sao chứ, tại sao mọi chuyện lại thành ra thế này?


Mười giây im lặng trôi qua, và Akari lại nói “xin lỗi” đầy thổn thức. Tôi ấn chặt ống nghe vào tai, đầu đã gục xuống tự lúc nào. Tôi không muốn nghe tiếp, cũng không thể cúp máy. Tôi hiểu rằng những lời vô tình vừa rồi đã làm tổn thương Akari, nhưng đó là do tôi không kiềm chế được bản thân. Tôi ghét mình đã không làm gì được cả!


Một hồi lâu sau khi Akari đã cúp máy, tôi vẫn ngồi đó, hai tay ôm chặt đầu gối.







Những ngày sau đó thật là khó chịu. Tôi quá xấu hổ với chính mình đã không nói được lời nào dễ nghe với Akari dù biết rõ cô ấy đang rất đau khổ. Chúng tôi không nói chuyện với nhau như trước, chúng tôi tránh mặt nhau đến tận ngày cuối cùng của bậc tiểu học. Ngay sau khi buổi lễ tốt nghiệp kết thúc, Akari đến và nói nhỏ nhẹ với tôi : “ Vậy là đến lúc tớ tạm biệt cậu rồi…” Trời ơi, ai biết được lúc thấy tôi đau đến mức nào! Tôi không nói lời nào với cô ấy, bởi có nói cũng chẳng ích gì nữa. Trước đến giờ tôi đã dựa dẫm vào Akari quá nhiều. tôi đã tự hứa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, chính chắn hơn để bảo vệ cô ấy, nhưng đến tận lúc chia tay tôi nhận ra mình không thể mạnh mẽ như thế. Tôi nhận ra mình chưa hơn gì một thằng nhóc cả, một thằng bé yếu đuối cứ mãi ngồi yên để cho thế lực vô hình nào đó cướp đi mọi hạnh phúc của mình mà không làm được gì.


Dù cho Akari đã không có quyền lựa chọn đi nữa, chúng tôi cũng không đáng phải chịu xa nhau như thế này, chúng tôi không-bao-giờ nên bị chia cắt mới đúng!


Buồn bã, tôi bước vào học kì đầu tiên ở ngôi trường mới. Dù không muốn tôi cũng phải một mình đối mặt với từng ngày trôi qua. Không còn Akari, tôi bắt đầu làm quen với vài người bạn, tôi cũng gia nhập đội bóng đá của trường và tập luyện rất tích cực. Cuộc sống sơ trung bận rộn hơn nhiều so với trước. Nhưng với tôi thế cũng tốt, nó giúp tôi không có thời gian để suy nghĩ vẩn vơ nữa. Mỗi khi rảnh rỗi tôi lại để tâm trí mình trong sự ray rứt, khó chịu về những chuyện buồn ngày xưa và tôi cảm thấy mệt mỏi. Để giải tỏa tôi đã cố gắng bắt mình hoạt động càng nhiều càng tốt bằng việc dành hầu hết quỹ thời gian la cà với bạn bè, đến câu lạc bộ thật sớm và đi ngủ ngay sau khi hoàn thành bài vở.


Ở nhà mới chắc hẳn Akari cũng rất bận bịu. Tôi thầm mong rằng thời gian trôi qua sẽ giúp cô ấy dần quên tôi. Dù sao thì chính tôi đã chủ động rời xa cô ấy, thế nên tôi cũng tự dặn mình phải quên Akari đi. Những con người đã quen với lời tạm biệt phải học được cách quên đi quá khứ…







Mùa hè đã đến, và một ngày nọ tôi nhận được thư từ Akari.


Tôi còn nhớ việc nhìn thấy lá thư màu hồng lợt nằm gọn trong hộp thư khiến tôi bối rối nhiều hơn là hạnh phúc. “Sao lại là lúc này?”, tôi suy nghĩ. Trong khi đang cố gắng thích ứng với một cuộc sống không có Akari, lá thư làm tôi nhận ra mình đã luôn nhớ về cô ấy, nhớ biết chừng nào.


Đấy, thay vì cố quên thì bấy giờ trong tâm trí tôi lại chẳng có gì khác ngoài cô ấy. tôi có bạn, nhưng những người bạn mới quen chỉ khiến tôi nhận ra Akari thật đặc biệt đối với mình. Ngày qua ngày tôi nhốt mình trong phòng để đọc thư của Akari. Hết lần này đến lần khác, thậm chí tôi còn kẹp vào vở để xem trong giờ học nữa chứ. Từng chữ, từng câu văn của bức thư như đã thấm nhuần, đã hòa hợp như một bài học vỡ lòng vào trí nhớ của tôi…


“Takaki Toono thân mến!”


Thư mở đầu như vậy, cái cảm giác bồi hồi khó tả chợt dâng trào khi lâu lắm rồi tôi mới lại được nhìn ngắm những nét chữ ngay ngắn của Akari.


“Khá lâu rồi không liên lạc với cậu, mong rằng cậu vẫn khỏe. Mùa hè ở đây nóng kinh khủng nhưng dám chắc là dịu hơn Tokyo nhiều. Viết đến đây tớ lại nghĩ mình thích cái hè nóng ẩm của Tokyo nhiều hơn. Vào mùa này tớ nhớ những lớp nhựa đường bị nung nóng trông như muốn chảy ra, tớ nhớ những tòa cao ốc và trạm xe điện ngầm nhìn bên ngoài như muốn nổ tung vì sức nóng đối lập hẳn với không khí rét run bởi mấy cái máy điều hòa chạy hết công suất ở bên trong…”


Bức thư khá là ngộ nghĩnh, xen lẫn vài dòng chữ được viết rất đều và đẹp như-một-người-lớn của Akari tôi lại thấy mấy hình vẽ tí hon dễ thương (như ở đoạn vừa rồi cô ấy đã minh họa bằng hình ông mặt trời và một con ve sầu).  Chúng khiến tôi vừa đọc vừa tự hình dung về cô bé Akari đang từng bước lớn lên như thế nào, và hiện tại thì trông ra sao. Lá thứ ngắn ngủn kể cho tôi viết vài điều về cuốc sống mới của Akari : từ việc hàng ngày đi chuyến xe điện có bốn toa đến trường thế nào, cho đến quyết định tham gia vào câu lạc bộ bóng chuyền của trường để “giữ eo” và việc đã chấp nhận “hy sinh” mái tóc dài giờ chỉ còn ngang tai ra sao. Kì lạ là những thay đồi ấy không làm tôi khó chịu chút nào. Akari không viết rằng cô ấy nhớ tôi và qua từng dòng thư tôi phần nào có thể cảm nhận được cuộc sống mới của cô ấy đang tiến triển tốt đẹp và cô ấy thích nghi được với nó. Thật tình là tôi khá vui vì cô ấy đã không kể lể như vậy. Khẳng định rằng chúng tôi đã xa nhau và nhớ nhau chỉ làm chính Akari và tôi thêm buồn mà thôi.


Từ đó, mỗi tháng chúng tôi lại viết cho nhau một lần, và tôi bắt đầu thấy cuộc sống của mình dễ thở hơn rất nhiều. Hình như tôi lại “có nhận thức” hơn thì phải. Một người bình thường luôn phản ứng đúng theo nhận thức của họ và cho đó là điều hiển nhiên, ví dụ như một tiết học chán ngắc thì… dĩ nhiên là chán ngắc. Khoảng thời gian có Akari đã khiến tôi bắt đầu biết khó chịu cuộc sống vô vị trước đây – toàn là những giờ tập luyện gay gắt hay những trò sai vặt vô lý của bọn đàn anh. Lại thêm một điều trái khoáy nữa, là khi thấy khó chịu như thế tôi nhận ra việc chịu đựng chúng lại trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi không than vãn cho nhau những khó khăn hay bất tiện trong cuộc sống bởi giờ đây chúng tôi không cần lo lắng điều đó. Qua những lá thư tôi dám mạnh dạn tuyên bố rằng : trên thế giới này chỉ có Akari là hiểu tôi, và chỉ tôi là người duy nhất đồng cảm với cô ấy.


Hè hết, rồi mùa thu cũng chóng qua đi. Mùa đông đã đến cùng với tuổi mười ba của tôi. Tôi đã cao hơn bảy centimet và có chút “cơ bắp” so với năm trước. Sức đề kháng tốt hơn cũng giúp tôi ít bị cảm cúm. Và hơn hết, tôi thấy mình ngày càng gần gũi đến thế giới bên ngoài hơn.


Cô ấy cũng mười ba rồi! Mỗi khi nhìn các bạn nữ sinh tong bộ đồng phục duyên dáng của mình, tôi lại cố mường tượng hình ảnh Akari mặc đồng phục thì như thế nào. Akari từng viết rằng muốn lại được cùng tôi ngắm hoa anh đào nở như hồi còn học tiểu học ấy. Có một cây anh đào lớn gần nhà Akari, trong một bức thư cô ấy có viết như thế


“Mình chắc rằng những cánh hoa nơi đây cũng chầm chậm rơi xuống đấy với vận tốc là 5 cm/s!”







Tôi bước vào học kì thứ ba[3], đó cũng là lúc tôi nhận được tin mình sẽ chuyển trường lần nữa…


Nhà tôi dự định sẽ chuyển đi vào kì nghỉ xuân sắp tới đến Kagoshima, một huyện đảo gần vùng Kyushuu. Mất đến hai tiếng bay từ sân bay Haneda ở Tokyo mới có thể đến được Kagoshima, và đối với tôi thế chẳng khác nào sống ở nơi tận cùng thế giới vậy. Dù gì thì tôi đã quen với những xáo trộn như thế trong cuộc sống của mình nhưng điều lớn nhất khiến tôi bận tâm chính là khoảng cách – cái khoảng cách địa lí giữa tôi và Akari. Từ hết tiểu học chúng tôi chưa gặp nhau lần nào dù nơi hai đứa ở không xa nhau lắm, chỉ ba tiếng xe điện là chúng tôi đã có thể gặp nhau vào mỗi thứ Bảy. Chứ một khi đã chuyển đến vùng cực Nam của Nhật Bản thì rất có thể tôi không còn cơ hội gặp Akari nữa…


Thế là tôi quyết định viết một lá thư cho Akari biết rằng tôi muốn gặp cô ấy lần cuối cùng trước khi đi xa. Một lô những địa điểm có thể gặp nhau được tôi liệt kê ra và cô ấy hồi âm gần như tức thì. Hào hứng là thế nhưng quả thật chúng tôi chẳng được rảnh rỗi cho lắm. Thi cuối kì xong là tôi phải bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa và thu xếp hành lý, Akari thì có những hoạt động ở trường và ở CLB phải lo. Vì vậy chỉ đến ngày đi học cuối cùng chúng tôi mới kiếm được một buổi tối.


Sau khi kiểm tra thật kĩ lưỡng, chúng tôi đã quyết định hẹn ở một trạm xe điện ngầm gần nhà Akari vào lúc bảy giờ tối hôm đó. Vậy là tôi sẽ cúp bữa tập của CLB bóng đá để có hai tiếng trò chuyện với Akari, sau đó vừa kịp bắt chuyến cuối cùng về nhà. Nếu về được trong ngày thì viện cớ xin ba mẹ cũng dễ dàng hơn. Hành trình của tôi dự định sẽ bắt đầu với chuyến xe đi trên tuyến Oda, đến Saikyou rồi chuyển xe để đi Utsu, cuối cùng đi tuyến Ryouke là tới nơi. Cả đi và về tốn tầm ba ngàn yên rưỡi[4]. Đó là một số tiền không nhỏ, nhưng gặp lại Akari với tôi mới là quan trọng nhất.


Còn hai tuần nữa là đến ngày hẹn. Tôi dành khoảng thời gian này để viết một lá thư dài cho Akari. Tôi gửi gắm vào bức “thư tình” đầu tiên trong đời mình tất cả - từ hi vọng về một tương lai hạnh phúc đến những câu nói hay, những ngôn từ sâu sắc nhất trong mọi quyển sách, bản nhạc tôi đọc tôi nghe mỗi ngày. Tôi cũng gửi vào đó, niềm tha thiết mong Akari hiểu rằng cô ấy quan trọng với tôi đến nhường nào. Dù có người sẽ coi thứ tình cảm đó là “con nít”, nhưng quả thật lúc ấy tôi đã quyết định sẽ thật lòng với bản thân và muốn bày tỏ tấm lòng ấy chân thành hết mức có thể. Khó mà nhớ hết được hồi đó tôi viết những gì, nhưng chắc chắn bức thư ấy đã dài đến tám trang. Tám trang giấy chất chứa biết bao câu chuyện, cảm xúc của tôi chỉ dành riêng cô ấy. Khi lá thư đến tay Akari cũng là lúc tôi tin rằng một phần của mình được ở bên cô ấy, và đó sẽ là động lực giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống mới ở vùng đất Kagoshima xa lạ.


Không chỉ qua những bức thư, nỗi nhớ về Akari còn đến với tôi trong những giấc mơ…


Trong mơ tôi thường là một chú chim câu dang rộng cánh mà bay trong bầu trời đêm, xuyên qua đường hầm và những tòa cao ốc sừng sững của thành phố. Một cảm giác rùng mình khoái chí dâng trào trong chính tôi khi cảm nhận cái thân hình bé nhỏ của mình phóng vút đi với tốc độ gấp hàng chục hàng trăm lần so với việc chạy bộ trên mặt đất. Chú chim ấy vội vã bay đến một vùng đất xa xôi, nơi có một điều đặc biệt đang chờ đợi. Hòa mình vào mộ luồng gió thần tốc, chú chim thấy cả thành phố từ lúc nào đã bị bao phủ bởi cả nghìn dải ánh sáng. Thứ ánh xanh dịu nhẹ của những vì sao cao tít trên trời rũ xuống hòa với thứ ánh đỏ ấm áp của hàng chục chiếc xe điện hoạt động không ngừng nghỉ. Tokyo từ trên nhìn xuống bấy giờ trông chẳng khác nào một hệ thống động mạch, tĩnh mạch chằng chịt của một sinh vật khổng lồ đang ngủ yên trong lòng thành phố.


Tôi tiếp tục bay. Ánh sáng nhờ nhợ của ánh trăng chiếu qua những đám mây làm gờ của chúng ửng lên một màu xanh thẫm, làm tôi hoảng hồn cứ ngỡ mình mới ngủ quên mà cắm đầu xuống một đại dương rộng lớn nào vậy. Càng lên cao sự sống càng trở nên thưa thớt và cảnh vật thì càng kì ảo. Tôi như đang bay trong bầu khí quyển của một hành tinh khác. Cơ thể bao bọc trong lớp lông vũ run lên bần bật trong vui sướng, chưa bao giờ tôi được tự do làm bá chủ của một bầu trời như thế, một không gian rộng lớn như thế!


Biết mình sắp tới đích, tôi liền thu cánh mà háo hức lao xuống. Nơi cô ấy sống đã hiện ra trước mắt! Đó là những cánh đồng vắng hoe trải dài đến chân trời, đó là mái nhà trông như những ô vuông chấm thưa thớt trên bức họa làng quê điểm xuyến chút màu xanh lá mạ từ vài mảng rừng nhỏ xíu. Một vệt sáng bỗng dưng xẹt ngang qua, đó là đèn của xe lửa. Tôi chắc mẩm cái tôi con người đang ngồi trong đó, và ở trạm ga tôi thấy một cô gái chờ đợi. Cô bé có mái tóc ngắn ngang tai đang ngồi một mình, gần băng ghế có một cây anh đào lớn. Cây không có hoa nhưng tôi vẫn cảm nhận được luồng sinh khí toát ra ngoài lớp vỏ dày cui phủ đầy tuyết. Cô gái đã thấy tôi, cảm nhận được sự hiện diện của tôi rồi.


Đúng vậy, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau!'' Có mưa vào ngày tôi và Akari gặp mặt. Bầu trời như thể bị đậy một cái nắp nồi xám xịt, rồi từ trên cái nắp ấy là vô số hạt mưa rơi lã chã thi nhau lấp đầy mặt đất một lớp nước mỏng. Buổi sáng thật lạnh lẽo, chắc là thần mùa Xuân lười biếng đang đánh một giấc mà để cho kẻ tiền nhiệm mùa đông một ngày làm việc ngoài giờ. Tôi khoác lên chiếc áo len hai lớp màu nâu dày cui, nhét bức thư cho Akari vào cặp rồi vội vàng chạy đến trường. Định bụng hôm nay sẽ về trễ nên chắc ăn tôi đã để lại một tờ giấy thông báo ở nhà. Ba mẹ tôi không biết chuyện hai đứa, thú thật tôi cũng ngờ rằng chưa chắc mình có cơ hội ra khỏi nhà nếu cố giải thích với họ về kế hoạch hò hẹn của chúng tôi.


Sáng hôm đó lòng tôi cực kì rạo rực. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ suốt giờ học bởi chẳng có tâm trí đâu mà nghe giảng với làm bài vào ngày học cuối cùng cả. Đâm ra tôi lại nghĩ về Akari. Một Akari mặc-đồng-phục-cao-trung trông như thế nào? Hai đứa sẽ kể cho nhau nghe những gì? Và hơn hết thảy, tôi tưởng tượng mình sẽ lại được nghe giọng nói dễ thương của Akari. Đúng thế, tôi yêu giọng nói của cô ấy trước cà khi nhận ra điều đó. Mỗi lúc Akari cất tiếng, những âm thanh êm dịu và chứa chan đầy sự tử tế được gửi vào không trung như có một thứ pháp lực diệu kì nào đó luôn làm tai tôi ấm áp, còn cơ thể thì nóng bừng như đang ngồi trên một cái lò sưởi.


Trời vẫn còn mưa, một cơn gió lạnh chợt thổi qua và để lại chút gì đó bất an trong niềm háo hức của tôi.


Sớm thôi! Akari sẽ lại cùng tôi trò chuyện.


Năm centimet một giây. Tôi cứ thế ngắm nhìn bầu trời ngoài cửa sổ hàng giờ đồng hồ, xa xa có vài ánh đèn thấp thoáng chớp tắt ở mấy khu chung cư. Chuông reo báo hiệu tiết học cuối cùng kết thúc cũng là lúc những giọt mưa bắt đầu to lên, rồi hóa thành những hạt tuyết trắng.


Khi đã chắc rằng không còn ai khác trong lớp, tôi rút trong cặp lá thư và một tờ giấy ghi chú đã chuẩn bị từ trước. Hơi chút lưỡng lự nhưng tôi vẫn nhanh chóng bỏ gọn vào trong túi áo. Tôi rất muốn đưa lá thư cho Akari nên nó phải được để vào vị trí mà lúc nào cũng có thể chạm vào được. Còn về tờ ghi chú, đó là danh sách những chuyến tàu có ghi cả thời gian đến và đi mà tôi sẽ lên. Mặc dù đã quay đi quay lại hàng chục lần tờ giấy nhỏ xíu ấy nhưng có gì đó vẫn thôi thúc tôi phải đọc lại thêm lần nữa.


Theo dự định, hành trình sẽ bắt đầu với ba chuyến tàu mỗi chuyến bốn mươi lăm phút từ nhà ga Goutokuji, đi trên tuyến Oda để đến nhà ga Shinjuku. Sau đó tôi sẽ chuyển sang tuyến Saikyou để đến nhà ga Oomiya, tiếp tục chuyển qua tuyến Utsunomiya đến nhà ga Koyama. Cuối cùng tôi sẽ đi trên tuyến Ryouke và đến nhà ga Iwafune vào lúc sáu giờ bốn mươi lăm phút tối. Chúng tôi hẹn nhau lúc bảy giờ nên thế là vừa kịp. Đây là lần đầu tôi tự một mình đi xa và tôi luôn tự nhủ rằng sẽ không có bất trắc nào xảy ra…


Đúng. Mọi chuyện sẽ thuận buồm xuôi gió!


Tôi đi xuống mấy bậc cầu thang được chiếu sáng lờ mờ để ra tiền sánh của trường. Không còn tiếng cười nói của học sinh nên cánh cửa sắt đóng lại vang to đến rợn người. Tôi nhanh chóng thay giày, để lại cây dù trong giỏ đựng rồi đi ra ngoài. Trời không còn mưa nhưng trắng xóa tuyết. May là không phải đi với đôi giày ướt lần nữa. Tôi ngước lên bầu trời để cảm nhận hàng vạn bông tuyết bao phủ lấy thân thể mình, rồi nhanh chóng tôi đội cái hoodie lên và chạy đến nhà ga.







Tôi từng nghĩ đây là lần đầu tiên mình đến nhà ga Shinjuku. Nhưng giờ nhớ lại hóa ra tôi đã tới một lần, là đi xem phim với một người bạn. Hồi đó thì là đi từ Oda đến đây và tôi nhớ hai thằng đã bị lạc ở khu soát vé gần cửa ra Đông JR[5]. Sự phức tạp và lộn xộn của Shinjuku để lại cho tôi nhiều ấn tượng hơn là bộ phim đi xem hôm đó.


Vừa ra khỏi khu soát vé tuyến Oda, tôi dừng lại trước một tấm bản đồ hướng dẫn lớn dán trên tường. Để chắc chắn không bị lạc tôi nhìn kĩ bản đồ một lúc rồi bước nhanh đến nơi có biển báo “Khu bán vé JR”. Đối diện mấy cây cột chỉ dẫn là một dãy các máy bán vé tự động và tôi vội bước đến cái máy có ít người chờ nhất. Ngực tôi nhói đau khi mùi nước hoa nồng nặc toát ra từ một cô gái ăn mặc như nhân viên công sở bất ngờ xộc thẳng vào mũi. Hàng người bên cạnh vừa nhích vài bước lên trước. Lần này bên cạnh tôi là một ông cụ mặc áo khoác sặc mùi long não.


Quá nhiều âm thanh trong nhà ga, chúng hòa quyện và vang dội về mọi hướng tạo nên một hợp âm đầy hỗn loạn và ồn ã. Mũi giày dính đầy tuyết của tôi bắt đầu thấy lạnh, còn đầu thì cứ ong ong lên. Đã đến lượt của mình, tôi ngơ ngác nhận ra cái máy này chẳng có cái nút nào cả (hồi đó hầu hết máy bán hàng tự động đều có nút bấm). Tôi bèn liếc sang người bên cạnh và biết rằng có thể chạm tay trực tiếp vào màn hình để mua vé.


Đã có vé, tôi bắt đầu len lỏi vào đám đông, mắt chăm chú hướng về dãy biển chỉ dẫn để tìm đường đến chuyến tàu đi tuyến Saikyou. “Tuyến ngoại[6] Yamanote”, “Đi Sobu, từ Nagano”, “Tuyến nội[7] Yamanote”, “Đi sobu, từ Chiba”, “Tuyến nội thành tốc hành”, “Tuyến nội thành tốc hành chính”… Tôi đi qua cả đống trạm trước khi dừng lại ở một tấm bản đồ nữa, lớn hơn lúc nãy. Trên đó liệt kê rất chi tiết từng tuyến tàu đi và đến nhà ga. Tuyến Saikyou nắm sát trong góc. Tôi rút ra tờ ghi chú và nhìn đồng hồ (một chiếc hiệu G-Shock đen là quà mừng tôi vào sơ trung của ba mẹ). Các chuyến xe tại Shinjuku sẽ khởi hành lúc bốn giờ hai mươi sáu phút, và đồng hồ đang chỉ bốn giờ mười lăm phút. Thế là ổn, tôi còn mười phút và tất cả đang theo đúng dự tính.


Trước khi lên xe tôi có vào WC một chút, chuyến đi sẽ khá dài nên tôi nghĩ cứ “giải quyết” sớm cho tiện. Vừa rửa tay tôi vừa nhìn vào gương. Cái gương cáu bẩn được chiếu sáng lờ mờ từ một bóng đèn phủ đầy bụi hiện lên hình ảnh của một cậu bé. Cậu bé trong gương cao lớn hơn và trưởng thành hơn nhiều so với sáu tháng trước. Không hiểu vì trời lạnh hay vì suy nghĩ sắp được gặp lại một người bạn thân thiết mà môi cậu bé đỏ ửng lên, và cậu thấy ngượng về điều đó.


Không thể kiếm nổi cái ghế trống nào vì tàu đã chật kín, tôi đành dựa lưng vào thành ở sát phía cuối toa như nhiều người khác. Tôi bắt đầu mất bình tĩnh, hai mắt không thể tập trung nhìn vào một chỗ như khi đọc sách mà cứ láo liên hết nhìn lên mấy tờ áp phích quảng cáo lại nhìn vào những người xung quanh. Tôi chú ý hai cô học sinh đang nói chuyện với nhau, họ đều mặc váy ngắn để lộ cặp đùi trắng trẻo cùng đôi tất màu hồng phấn.


“Cậu thấy tên đó thế nào?”


“Ai cơ?”


“Biết rồi còn hỏi, cái ông học trường cao trung Kita ấy!”


“Ổng hả? Cậu có bình thường không đấy?”


“Rất bình thường, ổng hợp với mình lắm!”


Có lẽ họ đang nói về một anh chàng mới quen nào đó, dù biết chắc hai cô gái kia không nói đến mình nhưng tôi tự dưng lại đỏ mặt. Tôi bèn quay đi chỗ khác, sờ túi áo để chắc rằng lá thư vẫn nằm ở đó. Tôi kiếm được một chỗ có cửa sổ và nhìn ra ngoài. Tàu đã đi được một quãng trên một cây cầu khá cao, nó bắt đầu lắc lư và gây ra những tiếng rầm rập làm tôi khó chịu. Ánh mặt trời sắp lặn đang nhuộm mấy dãy núi đằng xa cùng với một dãy cao ốc san sát nhau những đường viền màu cam lợt. Tuyết vẫn tiếp tục rơi, không biết bây giờ mà còn ở Saitama thì như thế nào nhỉ? Khác hẳn với vẻ thoáng vãng nơi đây, tôi tưởng tượng về những mái nhà đầy tuyết trông như muốn xích lại gần để ủ ấm cho nhau, và cả thành phố sẽ như một tàn tích lớn bị chôn vùi dưới một nền đất trắng. Chắc là như thế.


Trên đường, tàu tạm dừng ở một trạm tên là Musashi-Urawa để hành khách có nhu cầu có thể chuyển sang tuyến nhanh. “Hành khách đi tuyến nhanh xin vui lòng chuyển qua tuyến đối diện.” Một giọng nói rè rè từ chiếc loa gắn trên trần xe phát ra. Gần nửa số người trong đó có tôi chuyển tàu. Hình như càng về phía tây đường ray lại càng chằng chịt hơn. Những ngôi nhà bắt đầu thưa đi và ngập hơn trong tuyết, vài hạt tuyết ánh lên nhờ những tia nắng còn sót lại của ánh chiều tà xuyên qua những đám mây con con. Nhìn những hạt tuyết vàng óng, những ngôi nhà thưa thớt khiến tôi chợt vỡ lẽ…


Cũng như nhà ga Shinjuku, không hề là lần đầu tôi đi ngang qua đây.


Trước khi vào lớp ba tôi đã cùng gia đình rời Nagano mà chuyển về thủ đô. Hồi mới tới Tokyo tôi đã bị choáng ngợp bởi hình ảnh của chốn đô thị quá đỗi náo nhiệt. Tôi còn nhớ mình suýt bật khóc vì luyến tiếc vùng thôn quê Nagano rộng rãi và bình yên khi thấy mình bị bủa vây tứ phía bởi những tòa nhà cao tầng lấp kín cả bầu trời. Ôi thế mà năm năm ở tokyo cũng trôi qua, tôi đã sống rất hạnh phúc bên cô bạn Akari của mình.


Akari luôn là một sự khích lệ lớn đối với tôi, và tôi thầm mong rằng mình cũng thật ý nghĩa với cô ấy như vậy.


Không lớn bằng Shinjuku, nhà ga Oomiya chỉ có một lối vào. Tôi nhanh chóng chạy xuống cầu thang, vượt qua một đám đông để đến chuyến tàu đi tuyến Utsunomiya. Thứ mùi lờ lợ của tuyết xộc vào từng ngõ ngách nơi đây, vào những đôi giày ướt nhẹp thi nhau chà sát nền gạch men gây ra những tiếng lép nhép khó chịu. Tôi tiếp tục đi và thấy ba bốn hàng dài toàn người là người.


Tuyến Utsunomiya cũng sẽ đầy nghẹt khách!


Tôi không vào hàng mà chỉ đứng chờ bên ngoài, vì dù có xếp cũng chẳng có cơ may được ngồi ghế. Lần đầu tiên trong chuyến đi này, tôi đột nhiên cảm thấy bất an thực sự, không lâu trước khi có một thông báo vang lên:


“Quý khách xin lưu ý, tàu đi tuyến Utsunomiya đến nhà ga Koyama, thị trấn Konomiya sẽ đến trễ tám phút so với lịch trình do tuyết rơi nhiều. Thành thật xin lỗi quý khách vì sự bất tiện này!”


Tôi đã chỉ lo mình bị lạc, bị trễ tàu chứ không lường trước việc chính những tuyến xe cũng có thể bị trễ. Tôi lại rút ra tờ ghi chú và nhìn đồng hồ, theo kế hoạch lẽ ra tôi phải lên xe vào lúc năm giờ bốn phút, vậy mà giờ đã năm giờ mười. Trời không quá lạnh nhưng tôi bắt đầu thấy run. Hai phút trễ còn lại đã trôi qua. Khi tiếng còi khời hành vang lên và những ngọn đèn pha cũng vừa được bật sáng, đứng trong xe tôi vẫn chưa ngừng run.


Tuyến Utsunomiya tạo cho tôi ấn tượng về sự tấp nập hơn hẳn tuyến Oda hay Saikyou, ít ra là vào cái giờ cao điểm này. Chiếc tàu tôi vừa lên trông cũ kĩ hơn hẳn những chiếc khác ở bến, ghế bên trong được sắp xếp theo từng cụm bốn ghế làm thành hai hàng đối diện nhau làm tôi nhớ lại những chuyến xe địa phương chỉ chạy trong nội vi Nagano thường đi hồi trước. Tôi nắm chặt một tay vào thanh vịn, tay còn lại thọc sâu vào túi áo khoác và đứng cùng với nhiều người khác tạo thành một hàng chen giữa hai băng ghế. Thiết bị sưởi ủ ấm cho cả toa, phủ lên lớp kiếng cửa sổ một lớp sương mòng, đôi chỗ có vài giọt nước ngưng tụ chảy rũ xuống. Hành khách trông ai cũng mệt mỏi và chẳng buồn nói chuyện. Hai cặp đèn huỳnh quang gắn trên trần tàu bị gỉ sét gần hết đang cố gắng tạo ra chút ánh sáng cho một bức tranh mà cả người lẫn cảnh đều không có một tí sức sống nào. Tôi hít thở sâu cho mình bớt run, nhìn ra ngoài những ngôi nhà xa xa chạy về phía mình mà cố gắng xua đi cái ý nghĩ rằng mình hoàn toàn lạc quẻ trong cái bức tranh buồn bã ấy.


Mọi căn nhà đã ra khỏi tầm mắt, giờ đây toàn bộ khung cành chỉ là những cánh đồng phủ trắng tuyết nối nhau xa tít tắp. Lẫn trong bóng tối có thể thấy ánh sáng của bóng đèn treo ngoài mấy cái nhà kho nằm trơ trọi giữa đồng mà lắc lư theo gió. Bất chợt một luồng sáng đỏ kì lạ đập vào mắt tôi. Hóa ra là dãy cột an toàn dẫn lên núi. Nhìn chúng làm tôi vui vui liên tưởng đến đến một đội cận vệ cao lớn đang đứng nghiêm hai bên để chào đón vị tướng già của họ.







Đường lên núi mở ra một không gian hoàn toàn xa lạ. Nhưng tôi đã không còn để ý đến cảnh vật xung quanh nữa, vì mọi tâm trí giờ đây chỉ tập trung vào câu hỏi : làm thế nào để kịp giờ? Tôi không có cách nào báo cho Akari biết mình sẽ tới trễ, hồi đó tôi chưa có di động và thậm chí số của cô ấy tôi cũng chẳng biết. Bao suy nghĩ lo âu cứ thi nhau mà xoay mòng mòng trong đầu tôi, mà túa ra hỗn loạn hệt như những hạt tuyết rơi ngày càng dày đã lấp kín ô cửa sổ tự bao giờ.


Cả tiếng đồng hồ vừa trôi qua mà xe vẫn chưa đến được trạm tiếp theo – nhà ga Koyama. Hình như càng rời thành phố thì mỗi trạm xe lại cách nhau xa hơn, và thời gian chờ ở từng trạm cũng lâu hơn, lâu đến khó hiểu. Cứ vài phút thì xe lại dừng và một giọng nói quen thuộc phát ra : “Xin quý khách lưu ý, do sự chậm trễ chung của các chuyến khác buộc lòng xe phải tạm dừng trong vài phút. Chúng tôi thành thật xin lỗi về sự bất tiện này và mong quý khách kiên nhẫn đợi…”


Tôi cầu ước một sức mạnh siêu phàm nào đó có thể giữ chiếc kim phút không cho nó đến vị trí bảy giờ, nhưng trong cái hoàn cảnh mà xe thậm chí còn không nhích nổi đến một centimet nào thì tôi biết rằng lời ước đó hoàn toàn vô dụng. Không gian càng im ắng thì những tiếng “tích tắc, tích tắc” càng nghe rõ mồn một, như dụ dỗ như hối thúc chủ nhân nó “Trễ rồi, bỏ cuộc đi!”. Lớp không khí lạnh đặc quánh như một cái lồng vô hình mà bao quanh làm tôi khó thở, mà co lại theo từng tiếng “tích tắc” tàn nhẫn.


Xe đến một nhà ga nhỏ tên là Nogi khi đồng hồ vừa điểm bảy giờ. Còn hai trạm dừng nữa mới là nhà ga Koyama cùng với ít nhất hai mươi phút – nếu không bị dừng – mới tới được trạm Iwafune, nơi Akari đang đợi. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc mới rời nhà ga Oomiya, sự mất kiên nhẫn và nản chí lấp đầy tâm trí của tôi. Chưa bao giờ tôi thấy khổ sở như lúc này. Không còn biết lạnh là gì, tôi mơ hồ nhìn ra bầu trời chỉ còn một màu đen buồn bã và chợt rùng mình khi cái bao tử rỗng không bắt đầu cồn cào. Tôi chợt nhận ra là đã có ghế trống, đúng hơn thì tôi là người duy nhất còn đứng trong xe. Tôi ngồi uỵch lên một chiếc ghế, đôi chân đột ngột trở nên cứng đơ và tê rần. Mọi sự mỏi mệt từ nãy giờ dường như đã đổ ào ra từng cơ quan, từng tế bào mà không gì ngăn cản được. Tôi uể oải rút ra lá thư viết cho Akari và nhìn chằm chằm vào nó. Thời điểm chúng tôi hẹn nhau đã trôi qua. Có lẽ Akari đã bắt đầu thấy lo. Nghĩ đến việc mình lại làm Akari buồn khiến tôi nhớ về cuộc điện thoại trước kia …


Tại sao mọi chuyện lại cứ phải như thế?


Xe tiếp tục lăn bánh trở lại sau mười lăm phút dừng ở nhà ga Nogi.







Tôi đến trạm Koyama vào lúc bảy giờ bốn mươi phút. Vừa xuống xe tôi liền chạy như bay đến chuyến xe đi tuyến Ryouke, tay vò nát mảnh giấy ghi chú mà quăng vào thùng rác.


Nhà ga Koyama trông thật lớn so với sự thưa thớt của con người ra vào. Trong khi chạy tôi có liếc qua vài người đang ngồi xung quanh một chiếc lò sưởi lớn. Có phải học cũng đang chờ người thân không? Không gian yên tĩnh trong nhà ga đột nhiên bị xao động bởi những tiếng bước chân hớt hả của một thằng bé bị trễ hẹn.                                                


Khó mà nhớ được hôm nay đã bao nhiêu lần tôi chạy lên chạy xuống cầu thang, và băng qua bao nhiêu sân ga. Đến sân ga Ryouke, tôi nhận ra lớp gạch men dưới chân đã thay bằng một đường xi măng trải dài giữa hai hàng cột xi măng quấn đầy dây nhợ, đường ống lên tận trần nhà. Vài ngọn gió rít lên khe khẽ len lỏi dích dắc qua hàng cột như những chàng cầu thủ điêu luyện. Ánh sáng ở đây cũng mờ mờ, ảo ảo cùng với hơi lạnh đã khiến con đường như đang dẫn lối vào một hang động kì bí nào vậy…


Tôi băng qua một dãy dài toàn ki-ốt đóng cửa im lìm mà cứ tưởng như mình bị lạc, may thay không lâu sau đã có vài bóng người đang đợi xe nhìn về phía tôi. Dù đang vã mồ hôi nhưng cái điểm chờ này vẫn toát ra thứ khí quyển lạnh lẽo đến rợn óc, khá là hợp rơ với một không gian tăm tối nơi đây. Nguồn sáng duy nhất đến từ tấm biển quảng cáo của một hiệu mì Soba, cùng với hai chiếc máy bán nước tự động đặt sát mấy dãy ghế.


“Do điều kiện thời tiết xấu, mọi lịch trình của ngày hôm nay tạm thời bị hoãn lại. Chúng tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự bất tiện này và mong quý khách kiên nhẫn chờ”, một lần nữa cái thứ âm thanh vô cảm ấy vang vọng khắp sân ga.


Tôi kéo hoodie lên trùm kín đầu rồi nép sát mình vào một cái cột gần đó, vừa để giữ ấm vừa có thể tránh gió. Vẫn phải chờ! Chưa cần đến thứ khí lạnh bốc lên dần dần từ mặt đất, chính sự bức bối lo sợ trong lòng đang tước đi từng độ C trong cơ thể. Cái dạ dày trống không lại tiếp tục réo lên làm người tôi được phen run lên cầm cập. Tôi nhìn qua quán mì Soba, có hai người đàn ông hình như là nhân viên công sở đang húp xùm xụp bát mì nóng hổi. Tôi mang đủ tiền để mua thức ăn, nhưng nghĩ về Akari đang chờ mình cũng đang lạnh và đói bụng như thế làm tôi không muốn ép mình ăn chút nào. Cơ mà, trong cái thời tiết này thì tự cho mình một lon cà phê nóng chắc cũng không có gì quá đáng, tôi bèn đi đến cái máy tự động. Vừa rút ví tiền ra, tôi vô tình làm rơi lá thư…







Trong thực tại tôi đang nghĩ thế này : dù “việc đó” không xảy ra đi nữa cũng chưa chắc tôi có thể đưa lá thư ấy cho Akari. Tôi nhận ra nó vẫn chưa đủ sức mạnh để thay đổi tương lai cùa chúng tôi. Cuộc sống của tôi và Akari đã như hai chuỗi dây xích có chung một vài mắt mà dù muốn dù không cũng chẳng thay đổi được. Rốt cuộc tình cảm của chúng tôi dẫu từng tươi đẹp thế nào, mạnh mẽ ra sao rồi cũng sẽ nhạt phai, chầm chậm mà vĩnh viễn theo dòng chảy của thời gian – dù tôi có có bức thư ấy hay không .


“Việc đó” mà tôi nói đến, chính là lá thư vừa rơi xuống đất lúc bấy giờ đã bị gió cuốn đi, bị ném văng ra khỏi chiều dài sân ga và tan biến trong bầu trời đen kịt bên ngoài chỉ trong một cái chớp mắt. Tôi nhớ mình đã cắn chặt hai hàm răng để kiềm giữ những giọt nước mắt như thế nào, và tôi đã không mua lon cà phê đó.







Chuyến xe đi đến trạm Ryouke của tôi đã dừng hẳn. “Vì tuyết rơi quá dày, chúng tôi buộc lòng phải dừng hoàn toàn lịch trình để tránh bất cứ rủi ro có thể xảy ra…”, thông báo vang lên. “Chúng tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự bất tiện này, nhưng chúng tôi hiện vẫn chưa nhận được thời gian trì hoãn cụ thể của từng chuyến xe”. Cảnh vật bên ngoài chỉ còn phủ hai màu trắng đen, và thứ âm thanh duy nhất là tiếng gào rú của vô số những cơn gió làm mấy khung cửa kính va vào nhau lộp cộp. Họ nghĩ cái gì mà cho xe dừng ở nơi khỉ ho cò gáy này? Tôi nhìn vào đồng hồ - như cả chục lần trước đó – và nhận ra đã hai tiếng trôi qua từ giờ hẹn. Tôi gỡ chiếc đồng hồ ra và quẳng lên cái bệ nhỏ gần cửa sổ. Có nhìn bao nhiêu lần cũng vô ích, tôi chỉ biết cầu nguyện cho chiếc xe có thể chuyển động trở lại.


“Takaki-kun có khỏe không? Hôm nay tớ phải dậy sớm lên CLB nên tớ viết lá thư này trên xe đấy!”, Akari đã một lần viết như thế…


Mỗi khi xem thư của Akari tôi hay tưởng tượng cảnh cô ấy đã viết nó ra sao. Cũng như mọi lần khác lúc nào tôi cũng thấy cô bé Akari ngồi một mình, luôn luôn cô độc như thế. Vâng, “cô độc” có thể là từ ngữ hợp nhất dành cho chúng tôi. Tôi đã có bạn ở trường, nhiều là đằng khác. Nhưng chính vào lúc này đây, tôi, cũng ngồi một mình trên xe nhận ra rằng đây mới chính là con người thật của mình – một Toono Takaki hoàn-toàn-cô-độc. Giờ đây hơi ấm của máy sưởi không còn xua được cái lạnh lẽo đã hòa vào nỗi cô đơn của con người và sự trầm mặc của thiên nhiên. Tôi không còn muốn diễn tả cảm giác của mình lúc này nữa, đây chắc chắn là những thời khắc nghiệt ngã nhất trong cuộc đời tôi từng phải nếm trải.


Thời gian cứ như được tính bằng thiên nhiên kỷ trôi qua và tôi chỉ biết ngồi giấu mặt trong chiếc hoodie mà thấy cái lưng như muốn còng rụp xuống. Hai hàm răng đau buốt của tôi đã nghiến chặt nãy giờ để ngăn lại những giọt nước cứ chực trào ra nơi khóe mắt.


Tại sao chỉ mình tôi phải chịu đựng sự giày vò khủng khiếp này? Nghĩ đến việc Akari vẫn còn chờ ở điểm hẹn, trong thời tiết ngày càng lạnh lẽo này khiến tôi phát điên. Tôi không muốn, không dám nghĩ tới cảm nhận của cô ấy. Giờ đây tôi chỉ mong Akari đừng đợi thêm một giây nào nữa...


Akari à, nói với tớ rằng cậu đã… đã về rồi đi!''

Nhưng làm sao có thể phủ nhận một sự thật là Akari sẽ vẫn chờ ở đó? Không phải là ước đoán, không phải là hy vọng, đó là một điều hiển nhiên mà tôi chỉ đơn thuần là “biết” như vậy. Cái sự hiển nhiên ấy không mang lại hạnh phúc, chỉ có một nỗi tuyệt vọng đang kéo dài vô tận như những hạt tuyết rơi rụng ngoài kia… Thêm hai tiếng trôi qua trước khi xe tiếp tục chạy. Tôi đến Iwafune vào đúng mười một giờ, thế là trễ đến bốn tiếng. Trời đã về khuya. Một âm thanh mềm mại vang lên khi chiếc giày của tôi lún sâu vào lớp tuyết mới phủ. Tôi nhận ra gió đã ngừng thổi và những bông tuyết đang rơi chầm chậm theo phương thẳng đứng xuống đất. Mọi thứ ở đây đều nhỏ bé và yên tĩnh. Xung quanh nhà ga không hề có tường rào, đứng đây có thể nhìn thấy những cánh đồng nối tiếp nhau đến tận chân trời, nơi thấp thoáng một vài đốm sáng nhỏ tí mà tôi đoán là từ một thị trấn nào đó. Thật ra cảnh vật nơi này cũng không hoàn toàn vô thanh, lắng tai tôi có thể nghe được tiếng rì rì phát ra từ động cơ của một chiếc tàu vừa rời trạm.


Tôi đi trên cầu vượt và đến khu soát vé. Từ trên cầu có thể quan sát thị trấn đằng xa kia rõ hơn. Những đô thị đã luôn ồn ào, náo nhiệt thế nào giờ đây cũng cùng với thiên nhiên hòa vào giấc ngủ say dưới làn tuyết trắng. Tôi đưa vé cho chú soát vé rồi bước vào phòng chờ của nhà ga. Căn phòng hoàn toàn bằng gỗ. Hơi ấm cùng cái mùi quen thuộc bốc lên từ chiếc lò sưởi dùng dầu nhanh chóng quấn lấy cơ thể làm tôi nhắm mắt lại mà từ từ thu thứ nhiệt lượng ấy vào trong mình. Vừa mở mắt ra, hình ảnh đầu tiên trước mắt tôi là một cô bé ngồi ngay cạnh ló sưởi, đầu gục xuống…


Cô bé mảnh khảnh ngồi co mình trong tấm áo khoác trắng làm tôi chưa kịp nhận ra. Chỉ đến khi tôi tiến lại gần và gọi khẽ “Akari!” thì cô ấy có chút phản ứng. Cô từ từ ngẩng đầu và nhìn về phía tôi với đôi mắt đỏ hoe đã ngấn đầy nước…


Đúng là Akari rồi!


Mới chỉ một năm thôi mà Akari trông trưởng thành hơn hẳn, mái tóc đen dài được ánh sáng hắt ra từ chiếc lò sưởi phủ lên một lớp vàng kim đầy óng ả. Tôi đang ngắm nhìn cô gái xinh đẹp nhất thế gian này. Tôi đứng ngây ra đó mà không nói được lời nào, cảm thấy con tim mình như đang có bàn tay vô hình nào đó bóp chặt, bị rung lắc bị va đập khắp phía trong cơ thể như một món đồ chơi. Một cảm giác lẫn lộn đến khó tả khiến tôi không thể rời mắt khỏi cô ấy. Khoảnh khắc hai đứa nhìn nhau, khoảnh khắc mà những giọt nước mắt của Akari đang lớn dần lên tất cả cứ như đang chảy trong một dòng thời gian khác biệt, thật chậm rãi mà quý giá biết bao. Akari chợt đưa tay ra, cô ấy nắm lấy vạt áo khoác của tôi rồi siết chặt lấy làm tôi nhanh chóng phải bước thêm một bước tới gần. Thoáng chốc tôi đã thấy vài giọt nước rơi xuống mu bàn tay trằng trẻo của Akari mà xúc động nhận ra rằng mình đang khóc nức nở cùng cô ấy.


Thau nước đặt trên lò sưởi đã bắt đầu sôi, vang lên khắp phòng những tiếng kêu lục bục nhẹ nhàng…







Akari mang theo một hộp thức ăn và một bình trà giữ nhiệt loại nhỏ. Chúng tôi ngồi cách ra để bày các thứ ở giữa. Akari rót cho tôi một ít trà. Vị trà thật dễ chịu, trời lạnh mà có cái gì nong nóng vào người quả là tuyệt vời.


“Trà ngon quá!”, tôi thật thà nói.


“Thật sao? Trà Houji thường thôi mà?”


“Houji? Lần đầu tiên tớ uống loại này đấy.”


“Giỡn hoài, Chắc chắn là cậu uống rồi mà quên đó!”. Akari nói vậy nhưng thật sự đối với tôi nó là thứ trà ngon nhất từng được uống. tôi bèn lí nhí nói “Thật à…” trước khi bắt gặp ánh mắt châm chọc từ cô ấy.


“Ừm, thật!”


Không chỉ ngoại hình, vóc dáng mà cả giọng nói của Akari cũng “người lớn” đi nhiều. Chất giọng ấy vẫn giữ được sự hiền thục vốn có, vẫn được pha vào chút sự tinh nghịch giờ đây có hơi e thẹn rụt rè hơn xưa. Sự e lệ ấy khiến người tôi ấm dần thêm một cách lạ lùng. Tất cả nhiệt lượng bị mất trong suốt chuyến đi đầy gian nan kia như đã theo từng lời nói của Akari mà quay trở về cơ thể của tôi.


“À, tớ cũng mang theo… vài thứ nữa,” Akari vừa nói vừa mở hộp thức ăn và lấy ra hai cái khay hiệu Tupperware. Một khay được nhồi vào bốn nắm cơm lớn còn khay kia chứa những món ăn đầy màu sắc như thịt viên, xúc xích, trứng ốp lết, mấy quả cà chua bi cùng vài khúc bông cải. Tất cả đồ ăn đều được tỉ mỉ sắp xếp thành từng cặp ngay ngắn.


“Đồ tự làm nên tớ không chắc là ngon đâu…” Akari cẩn thận bày ra từng khay rồi ngượng ngùng nói tiếp : “… nhưng nếu muốn cậu có thể thử một chút!”


“Cám ơn,” rốt cuộc cái miệng cũng bật ra được âm thanh. Tôi nhận ra cái bao tử của mình đã kịch liệt biểu tình thế nào khi gần sáu tiếng đồng hồ phải ngồi trên xe mà vô tình thốt lên : “Tớ đói gần chết đây!” Akari nhìn tôi mà phì cười.


Tôi cầm một nắm cơm và cắn một miếng to. Chẳng hiểu có thứ chất lạ lùng gì trong cơm mà khiến tôi như muốn òa khóc. Tôi bèn cúi mặt xuống để Akari không nhìn thấy, nắm cơm thật thơm và dẻo ngon hơn bất cứ thứ gì tôi từng được ăn.


“Đây là món cơm nắm ngon nhất tớ từng ăn đấy!” Lại một lần nữa tôi nói với Akari bằng giọng điệu thật thà quá mức.


“Lại khách sáo rồi kìa!”


“Nói thật mà!”


“Cậu đang đói ăn gì mà chẳng thầy ngon?”


“Ơ, nhưng mà…”


“Ai cũng vậy hết á, mà thôi giờ tớ cũng đói kinh khủng đây!” Akari liền lấy một nắm cơm.


Chúng tôi ăn say sưa trong một lúc, những món ăn kèm với cơm như thịt, trứng và xúc xích đều thật tuyệt. Cứ mỗi lần tôi khen ngon thì Akari lại ngượng ngùng cười nhẹ, có lúc lại nói với tôi đầy tự hào “Vừa đi học về là tớ làm ngay đấy! Mẹ cũng có giúp… nhưng ít thôi.”


“Cậu xin được ra đây bằng cách nào vậy?”


“Tớ có để lại một tờ giấy, bảo là sẽ cố về sớm để mẹ khỏi lo.”


“Tớ cũng thế, mà giờ trễ thế này chắc ba mẹ cậu lo lắm!”


“Ừm… nhưng chắc không sao đâu. Khi làm cơm mẹ tớ có hỏi là làm cho ai và tớ chỉ mỉm cười, thế là mẹ cũng cười. Chắc mẹ biết tỏng tớ định làm gì tối nay rồi đấy chứ!”


Tôi tiếp tục ăn dù cực kì tò mò về việc mẹ Akari biết chúng tôi “định làm gì” đến cỡ nào, nhưng sự thoải mái đến từ cái bụng no căng vừa tiêu hóa hai nắm cơm lớn cùng hàng loạt những món khác làm tôi nhanh chóng quên đi những suy nghĩ ấy.


Ánh sáng vàng tươi từ chiếc lò sưởi lại có dịp chiếu qua, làm vầng trán tôi ấm lên dễ chịu. Hai đứa dường như không còn biết thời gian là gì nữa, chỉ biết vừa uống trà vừa thao thao bất tuyệt về đủ thứ trên đời. Không ai tỏ ra muốn kết thúc cuộc trò chuyện, nói đúng hơn là không ai nghĩ đến việc về nhà vào lúc này cả. Chính tôi còn không ngờ chúng tôi có thể tâm sự với nhau nhiều đến thế, cứ như là không bao giờ hết cái để mà nói vậy. Tôi và Akari cũng chia sẻ về việc chúng tôi đã cô đơn thế nào suốt năm qua. Dẫu khó mà chuyển tải hết được mọi cảm xúc của mình vào những câu truyện, nhưng qua cuộc trò chuyện này tôi dám chắc rằng hai đứa đã có thể hiểu mình luôn nhớ nhau và thật sự muốn ở bên nhau biết chừng nào.


Đồng hồ vừa điểm mười hai giờ đêm cũng là lúc có người gõ lên cửa kính rồi nói vọng vào phòng :


“Đến giờ chú phải đóng cửa rồi, không còn chuyến nào nữa đâu.”


Chính là người soát vé đứng tuổi tôi gặp lúc vừa đến đây. Tôi đang lo về việc chúng tôi ngồi đây nói chuyện đến tận giờ này đã làm chú ấy bực mình nhưng nhanh chóng chú nở một nụ cười hiền hậu.


“Chú xin lỗi nhé, thấy hai đứa say sưa vui vẻ trò chuyện chú không nỡ xen vào, nhưng mà ..”


Giọng của chú thật nhỏ nhẹ và tử tế, thấy chúng tôi ra về chú cũng cũng không quên dặn :


“Tuyết rơi dày lắm, hai cháu về nhà cẩn thận đấy, chào các cháu!”


Chúng tôi cám ơn người soát vé đứng tuổi và rời khỏi nhà ga.


Thị trấn Iwafune phủ một màu trắng xóa. Tôi lấy làm lạ vì ít khi nào tuyết rơi kéo dài đến tận đêm như vậy, lạ như nữa là hầu như chẳng có lấy một tí cảm giác lạnh lẽo hiện diện nơi đây cả. Tôi có chút gì đó “vui” khi đi cạnh Akari mà thấy mình cao hơn cô ấy, được vài phân cơ! Chúng tôi cứ thế mà bước chầm chậm trên lớp tuyết xốp mịn hướng về một khoảnh đất được chiếu sáng lờ mờ không rõ từ đâu phát ra. Đột nhiên Akari trở nên háo hức thấy rõ, cô ấy liền chạy về nơi có thứ ánh sáng đó. Dõi theo bóng hình Akari chợt khiến tôi xúc động biết bao : đã có một cô bé từng đi cùng tôi và chạy cùng tôi về nhà như thế đấy!


Tôi theo Akari đến một cái cây lớn, chính là cây anh đào cô ấy từng kể trong thư. Cây khá cao, một mình trơ trọi đứng giữa đồng lúa hiu quạnh. Từ thân gỗ to khỏe vươn ra vô số những nhành cây nặng trĩu tuyết mà cong oằn xuống đất. Chúng tôi núp dưới tán cây mà trông lên thứ ánh sáng bí ẩn kia được những hạt tuyết phản chiếu từng chút một ra xung quanh gốc cây. Mỗi đường nét và màu sắc đều góp phần làm cho khung cảnh nơi đây toát ra một vẻ đẹp mờ ảo cổ tích như thể chúng tôi đang đứng trong phim trường của một đạo diễn tài hoa và không thiếu sự lãng mạn.


“Này, trông cứ như những hạt tuyết ấy!” Akari quay lại nói với tôi.


“Ừm, đúng vậy”. Tôi trả lời và thấy Akari cười. Chúng tôi nhìn nhau mà không để ý rằng tán cây trên đầu đã nở rộ bông tự khi nào, có chăng chỉ mơ hồ cảm giác một thứ hơi ấm kì lạ tỏa ra từ hàng trăm cánh hoa anh đào màu hồng lợt là là rơi xuống những bờ vai …




Rất tự nhiên như một chân lý tất yếu nào đó, tôi hôn Akari.




Khoảnh khắc mà hai bờ môi nhẹ chạm vào nhau…




Đó là khoảnh khắc chứa đựng tất cả - từ cõi vô biên đến điểm đơn nhất, từ tâm hồn đến sâu thẳm trái tim tất thảy mọi thứ đều hiện lên rõ ràng đến kinh ngạc. Có cảm giác trong nụ hôn ấy chúng tôi đã trao cho nhau trọn vẹn cả mười ba năm cuộc đời với toàn bộ những tâm tư, tình cảm và những nỗi buồn dai dẳng khôn nguôi. Akari ở đây rồi! Akari mà tôi yêu đang ở đây! Không còn cơ hội nào khác nữa! Sau đêm nay thời gian sẽ lại chia rẽ và ép chúng tôi phải thích nghi với “cuộc sống mới” một lần nữa. Tôi không muốn xa Akari, tôi trân trọng những giây phút này. Ấy thế mà tôi lại không thể làm gì, không dám nói gì, không hiểu phải lưu giữ và trân trọng tình cảm của cô ấy ra sao…


Tôi đã không biết yêu Akari như thế nào!







Mười bảy năm đi qua đã chôn vùi đi biết bao kỉ niệm. Vui cũng mất mà buồn cũng phai mờ, chỉ để lại trong tôi một bờ môi ấm áp của Akari. Có lẽ những ngữ từ hoa mĩ nhất tôi biết dùng cũng không thể miêu tả nổi sự thuần khiết chân thành cùng với niềm hạnh phúc kì diệu đã đến trong nụ hôn đầu đời của tôi và Akari đêm hôm ấy.







Chúng tôi nghỉ lại ở một nhà kho nhỏ sát bờ ruộng. Hai đứa tìm được một cái chăn khá là cũ vắt tạm trên kệ sau khi phải len qua đám nông cụ chất từng đống từng đống trong kho. Tôi và Akari nhanh chóng cởi giày và áo khoác – những thứ đã ướt sũng vì tuyết và trở nên lạnh khủng khiếp. Akari mặc bên trong một bộ đồng phục thủy thủ[8] còn tôi thì mặc đồng phục đen[9] truyền thống. Khá là hợp rơ nhỉ?


Chúng tôi ngồi tựa vào nhau, thu kín mình trong chăn và tiếp tục trò chuyện. Mái tóc của Akari khẽ vuốt qua gáy và cổ tôi, hương thơm nhè nhẹ cùng hơi ấm từ cơ thể cố ấy chạm vào tôi tạo nên một cảm giác thỏa mãn và dễ chịu đến khó tả. Chúng tôi đang gần nhau đến mức mỗi lời nói hay hơi thở phát ra đều làm đung đưa ngọn tóc của người đối diện, phả chút thứ không khí ấm áp vào làn da mặt đã tê đi vì lạnh. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy những cột sáng và bụi tuyết hiếm hoi lọt vào trong kho tạo nên một thứ sắc xanh lờ lờ huyền ảo. Tôi và Akari ngắm nhìn những cột sáng đó lướt đi khắp căn phòng trước khi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay…


Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy mình không còn cô đơn nữa. Một đêm thật ngắn ngủi nhưng tôi và Akari đã có nhau, và chúng tôi rất vui vì điều đó.







Tôi và Akari thức dậy vào tầm sáu giờ sáng hôm sau. Tuyết đã ngừng rơi, chúng tôi uống nốt số trà Houji vẫn còn ấm trong bình rồi cùng đi đến trạm xe. Trời đã xanh trở lại. Ông mặt trời bấy giờ đang ngự trên đỉnh núi tỏa nắng xuống cánh đồng lúa làm lớp tuyết chưa tan ánh lên đầy bóng bẩy. Thế giới đã bắt đầu ngày mới theo một phong cách thật lung linh!


Chuyến đi sáng thứ bảy chỉ có tôi là hành khách duy nhất. Chiếc tàu sơn màu cam và xanh lá chầm chậm tiến vào trạm, vừa đến chỗ tôi thì dừng hẳn. Tôi lên xe rồi nhanh chóng quay lại, nhìn vào cô bé Akari mười ba tuổi đang đứng đó với chiếc áo khoác không cài nút lộ ra lớp áo thủy thủ trắng tinh khôi…


Đây là lúc tôi nhận ra rằng thời khắc đáng sợ ấy rốt cuộc cũng đã đến! Từ đây chúng tôi sẽ trở về hai thế giới của riêng mình. Sự hụt hẫng đang khiến tôi không nói được lời nào. Thời điểm chia tay giữa tôi và Akari cứ yên lặng như thế cho đến khi Akari chợt lên tiếng :


“Này, Takaki-kun!”


“Hả?” Khó khăn lắm tôi mới bật ra thành tiếng.


“Takaki-kun…”. Cô ấy lặp lại, giọng đầy ngượng ngịu. Cánh đồng tuyết được sưởi ấm khi nãy giờ đây long lanh như một mặt hồ, phản chiếu ánh nắng rực rỡ lên thân mình mảnh khảnh trước mặt tôi. Akari thật đẹp, cô ấy đẹp như một nàng tiên vừa khoác lên mình một dải lụa vàng tươi mà mẹ thiên nhiên vừa ban tặng. Nàng tiên nhìn thẳng vào tôi, tập trung toàn bộ nỗ lực vào một lời nói thật mạnh mẽ.


“Takaki-kun, tớ chắc chắn rằng cậu sẽ khỏe mạnh! Tớ biết chắc rằng cậu sẽ được hạnh phúc!”


“Cám ơn…” Tôi vừa kịp thốt lên trước khi cửa xe đóng lại.


Không, không thể để như vậy được! Tôi biết mình phải nói với cô ấy nhiều hơn nữa! Trước khi nhận ra điều đó tôi đã gào lên với mọi sức lực của mình, xuyên qua lớp cửa kính đã đóng chặt:


“CẬU CŨNG PHẢI GIỮ SỨC KHOẺ! AKARI ƠI, TỚ SẼ VIẾT THƯ! SẼ GỌI CHO CẬU!”


Chắc chắn rằng tôi đang khóc, khóc ngon lành như chú chim lạc đàn không tìm được lối về. Ngay khi xe bắt đầu chuyển bánh, đôi bàn tay của tôi và Akari đã chạm vào nhau, đúng hơn là chạm vào hai mặt của cánh cửa. Xe đi nhanh hơn làm chúng tôi nhanh chóng bị tách ra, để lại dấu thấy rõ của hai bàn tay chồng khít nhau trên tấm kính mờ đục sương mai…







Xe tiếp tục chạy, tôi chẳng buồn tìm một ghế ngồi.


Tôi không nói cho Akari biết về chuyện lá thư và tôi làm mất nó như thế nào. Trong suốt chuyến đi đến Iwafune tôi đã luôn băn khoăn về việc làm sao chúng tôi còn có thể gặp nhau, không chỉ là đêm hôm ấy mà cả về sau nữa. Nhưng bằng một nụ hôn, chỉ một nụ hôn thôi, có lẽ đã thay đổi tất cả.


Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên cánh cửa, ngay vào dấu tay để lại lúc nãy…


Takaki-kun, tớ chắc chắn rằng cậu sẽ khỏe mạnh!

Cô ấy đã nói như vậy.


Những lời nói cuối cùng của Akari như vừa phá tan một bức tường lớn trong tôi, vừa mở ra một điều gì đó đầy xa lạ vốn thuộc về bản thân nhưng chính bản thân cũng không thể hiểu được. Đâu đó trong tôi đã mơ hồ linh cảm rằng : vào một thời điểm nào đó trong một tương lai rất đỗi xa xôi, những lời nói của Akari sẽ trở thành nguồn động viên lớn lao chỉ dành riêng cho tôi mà thôi!







Cậu bé Toono Takaki ngắm những ngôi nhà nối đuôi nhau chạy băng băng qua mình. Nó lại nghĩ về sự yếu đuối của mình…




Ước gì mình có sức mạnh để bảo vệ cô ấy!'' [1] -Kun : là một “kính ngữ” (Japanese Honourifics) của người Nhật Bản, theo ngay sau tên dùng cho người trên chỉ người dưới (thầy cô với học sinh hoặc sếp với nhân viên) hoặc bạn bè thân thiết (như trong truyện) và thường dùng cho phái nam (phái nữ dùng -chan).


[2] Chỉ vành đai tiểu hành tinh và thiên thạch xung quanh sao Thổ.


[3] Homo Neanderthal : một nhánh của họ Linh trưởng rất gần với giống người hiện đại ngày nay.


[4] Tatami : là một loại nệm là từ rơm khô (ngày nay có thể thay bằng sợi hóa học) đan ép chặt với nhau, được dùng để lát mặt sàn nhà truyền thống của Nhật Bản.


[5] Học kì thứ ba : đa số các trường của Nhật bản đều chia mỗi năm thành ba học kì, trong đó học kì thứ ba bắt đầu sau kì nghỉ đông và kéo dài từ tháng một đến tháng ba, học kì ba kết thúc bằng kì nghỉ Xuân (mỗi kì nghỉ Đông và Xuân kéo dài khoảng hai tuần).


[6] 3500 yen : khoảng 770.000 VND


[7] Đông JR : nguyên bản là “East JR”, là viết tắt của Công Ty Đường Sắt Phía Đông Nhật Bản (East Japanese Railway Company), hoạt động trong phạm vi khu vực Tohoku, Kantou và Koshinetsu, đây là công ty cung cấp tuyến xe dành cho khách lớn nhất Nhật Bản, kí hiệu chung cho các tuyến thuộc JR East là chữ JR màu xanh lục đậm.


[8] Tuyến ngoại : tuyến chỉ chạy ven xung quanh thành phố.


[9] Tuyến nội : tuyến chỉ chạy trong lòng thành phố.


[10] Đồng phục thủy thủ : chỉ loại đồng phục truyền thống của Nhật Bản dành cho nữ sinh với áo trắng và đầm (trông giống thủy thủ).


[11] Đồng phục đen : chỉ loại đồng phục truyền thống của Nhật bản dành cho nam sinh với áo đen có hàng khuy ở giữa và quần đen.


[12] Chú thích phụ : Takaki đã đi một quãng đường dài để gặp được Akari, từ Saitama đến Tochigi cách nhau hơn 80 km theo đường chim bay. Và khi Takaki chuyển đến Kagoshima thì khoảng cách giữa hai người xa hơn rất nhiều (Kagoshima cách Tochigi đến 1021,67 km theo đường chim bay)

Lưu Pocket Xuất PDF
Pocket_Image.png Print_page.gif

Theo dõi & Thanh chuyển trang


Advertisement