Minh họa[]
Thư viện ảnh[]
Giới thiệu nhân vật[]
Từ phải sang trái:
- Lord El-Melloi II:
- Một trong mười hai Quân Chủ Lord tại Tháp Đồng Hồ - tổng hành dinh của pháp sư.
- Mặc dù khả năng sử dụng ma thuật chỉ thuộc hạng hai nhưng anh lại có một lượng kiến thức đáng nể.
- Một trong số ít những người sống sót sau Cuộc Chiến Chén Thánh Lần Thứ Tư ở Viễn Đông.
- Gray:
- Đệ tử của Lord El-Melloi II.
- Một thiếu nữ bí ẩn luôn giấu mặt dưới mũ trùm đầu.
- Cô dường như thường hay chú ý quá mức vào vật gì đó dưới lớp áo chùm bên tay phải.
- Reines El-Melloi Archisorte:
- Em gái kết nghĩa của Lord El-Melloi II.
- Cô là người đã trao cho anh ta cái tên El-Melloi, và đưa anh vào địa vị Lord.
- Cô luôn luôn đem theo bên mình một Automata dạng hầu gái bằng thủy ngân.
- Luviagelita Edelfelt
- Clown
- Flueger
- Orlocke Caesarmund
- Adashino Hishiri
- Tokitō Jirobō Seigen
- Rosalind Istari
- Heine Istari
Trích đoạn[]
"Di chúc chỉ có ba câu."
"Hỏi những cái tên Thiên Sứ."
"Những người được hỏi và không thể trả lời, sẽ bị tước bỏ Thiên Sứ bằng mọi cách."
"Kẻ nào bắt được Thiên Sứ của ta, sẽ trở thành người thừa kế gia sản."
Chương Đầu[]
"Sư phụ của cô là hạng pháp sư tệ hại nhất."
Bằng giọng hết sức hằn học và kích động, Luviagelita Edelfelt bật ra câu nói trên.
Cho rằng câu nói ấy thật ra là lời nhận xét hiển nhiên, nên tôi không buồn tranh cãi. Dù có muốn đi nữa thì tôi cũng không dám phản bác câu nói ấy. Mức độ thù địch trong giọng nói cô ta, và lượng ma lực còn vượt xa hơn cả sự thù địch đang chảy qua cánh tay cô ta. Nó chuyển động trông như thể tuân theo một đồ hình, và bây giờ thậm chí còn như đang gầm gừ với những chiếc răng nanh nhe ra.
À dĩ nhiên, ngay cả tôi cũng hiểu được. Đồ hình đó gọi là Khắc Ấn Ma Thuật. Là thứ dành cho một pháp sư, nó giống như cơ quan nhân tạo, hoặc theo như tôi được học là thế. Truyền thừa lại từ dòng họ pháp sư lâu đời như dòng họ của cô ta, có thể coi nó là vật gia truyền quý giá nhất, và là lời nguyền kinh khủng nhất. Một phép Thần Bí cố định, được truyền lại như một bí thuật.
Quan trọng hơn hết, nó là dạng ma thuật sở trường của cô ta, một bùa phép được biết đến với cái tên "Đạn Grandr". Vốn dĩ nó là một lời nguyền cấp thấp, bắn ra từ ngón tay và chỉ gây ra cảm giác nôn nao. Trong trường hợp này, cô ta kích hoạt nó thông qua Khắc Ấn Ma Thuật nên nó có thể làm tim ngừng đập, gây đột tử, nó được biết đến với cái tên "Đạn Finn". Chỉ bằng một cử động tay ung dung, một kẻ không có khả năng kháng ma thuật như tôi chắc chắn sẽ bị hạ một cách dễ dàng.
Dù vậy, lạ thay, tôi không cảm thấy sợ hãi.
"Sư phụ của cô là hạng pháp sư tệ hại nhất."
Một lần nữa, như để nhấn mạnh quan điểm, cô ta nói to câu đó. Tôi hoàn toàn đồng tình. Nếu được, tôi sẽ chẳng ngần ngại mà giơ hai tay thể hiện là mình hoàn toàn và tuyệt đối đồng ý. Nhưng nếu làm thế ở đây, cô gái xinh đẹp kia sẽ không bằng lòng. Thay vì thế, cho dù chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa, tôi cũng sẽ tận dụng cuộc thảo luận ngắn ngủi này để cố gắng làm cho cô ta hiểu.
"…Tôi không phản đối."
Quyết định lảng tránh vấn đề bằng sự mơ hồ…
"Vậy tại sao cô lại đi theo hạng người như ông ta?"
…Tôi lập tức bật ra câu trả lời.
Có vẻ như nếu tôi lại đưa ra một đáp án dửng dưng nữa thì Gandr sẽ bay tới. Với năng lực ma thuật của cô ta, nó sẽ dễ dàng xuyên thủng cả những thứ cứng như gạch.
"Sư phụ của tôi..."
Khi tôi đáp, có một ký ức hiện lên trong tâm trí tôi. Tôi không biết liệu nó có phù hợp để làm đáp án hay không, nhưng tôi vẫn cứ kể ra.
"…Có một lần, sư phụ tôi xung đột với một con mèo."
"Một con mèo ư? Đấy mà là một câu truyện nghiêm chỉnh à?"
"Có lẽ vậy. Nó là một con mèo hoang làm ổ ở gần lối ra vào, vì xấu tính mà nó bị những người qua đường ghét bỏ. Có một lần, nó tấn công và cắn đôi giày ống ưa thích của sư phụ, khiến thầy bực đến nỗi phải nghiên cứu làm sao để trả đũa lại bằng ma thuật. Vào một ngày kia, con mèo hoang đó bị đụng xe.
Có lẽ tai nạn xảy ra vào khoảng nửa đêm, và được phát hiện ra vào sáng hôm sau.
Mặt của nó gần như dập nát, và một chi trước và sau của nó bị gãy lìa. Nó trước đây trông đã rất khó ưa rồi, nhưng khi đó, trông nó chẳng khác gì một miếng thịt máu me bê bết.
Trong khi những người qua đường ở đấy không ai đến gần nó thì sư phụ tôi lại tiến đến, và thầy liên tục nói những câu đại loại như 'Đừng có chạy qua đấy chứ, đồ ngốc'. Trong khi thầy la mắng con mèo, cho rằng nó gây rắc rối cho người khác kể cả khi chết, những người xung quanh chỉ nhìn thầy với vẻ mặt cau có tức giận."
"Ông ta mắc chứng gì vậy?"
Cô ta có vẻ bắt đầu nổi nóng.
Là một người chưa quen sống ở Luân Đôn, tôi không rõ những người qua đường thông thường xử sự như thế nào. Tôi biết sư phụ tôi là người xấu tính, nhưng lại chẳng biết thầy xấu tính đến mức độ nào.
"Nhưng sau đó, sư phụ tôi nhặt con mèo lên, và ôm nó không rời tay."
"…"
"Thầy mớm cho nó thảo dược giảm đau, đưa nó về phòng làm việc, và dành ra gần nửa ngày chỉ để bế nó. Bình thường thì thầy rất kỹ tính, thậm chí đối với việc quần áo của mình bị bẩn. Chỉ riêng lúc đó, với tâm trạng y như vừa mới làm đổ món súp, thầy ôm con mèo cho đến khi nó trút hơi thở cuối cùng, không rời nó cho đến khi nó được chôn cất đàng hoàng. Thế rồi với xì-gà ưa dùng và người dính đầy bùn đất, thầy đứng nhìn mồ chôn con mèo với vẻ mặt phiền muộn."
"…Quả nhiên, đây chẳng phải là một câu truyện nghiêm chỉnh gì cả."
Qua kẽ đôi môi đáng yêu ấy, tôi biết cô ta lầm bầm câu gì, nhưng tôi lờ đi. Thật lòng thì tôi cũng không nghĩ nó là một câu truyện nghiêm túc. Vì là một người đã quen tiếp xúc với cái chết trong thời gian dài, tôi nhận thấy cách cư xử của sư phụ hết sức ủy mị. Bước đi trên cõi đời hay ngủ yên dưới tấc đất thật ra cũng không khác nhau nhiều lắm.
Nếu có khác thì chỉ là chuyện có những người lẽ ra nên ngủ yên dưới tấc đất thì lại bước đi trên cõi đời.
Đúng vậy.
"'Em không hiểu'. Tôi nói với sư phụ tôi.
Và thầy đáp, 'Em không cần hiểu chuyện này đâu'."
"'Em không cần hiểu chuyện này đâu' ư?"
"Đúng vậy."
Tôi gật nhẹ.
"Thầy từng nói: '-chẳng qua là một cái bẫy tâm trí. Nếu muốn đi theo con đường ma thuật thì em không có thời gian để theo đuổi những điều như thế'. Nếu hỏi bất cứ học viên nào, cô cũng sẽ nhận được câu trả lời tương tự. 'Nếu từ đầu, tôi mà là pháp sư giỏi thì việc trị liệu những vết thương loại này là hoàn toàn có thể. Vì không thể đến đó kịp lúc, người không có được năng lực cần thiết rút cuộc lại là tôi'."
Chuyện này có gì không ổn, như thể một sự nản lòng.
Tất nhiên là có gì đó không ổn, chỉ việc chấp nhận sự việc như vốn dĩ phải như thế.
Làm sao mà một người như sư phụ tôi lại trở nên lung lạc quá vậy, ngay cả tôi cũng không biết. Đâu đó ở khoảng giữa con tim sáng suốt và sự chấp nhận mù quáng, có điều gì đó đã trở thành căn cơ đối với thầy. Đến nhiêu đó thì tôi hiểu, nhưng điều đó là gì thì tôi vẫn chưa thể đoán ra.
Đối với một pháp sư, đó chắc hẳn là điều gì đó khủng khiếp.
Đối với một thực thể khác người, đó chắc hẳn là một điều nghiễm nhiên không thể chấp nhận.
"Nói chung, cảm giác thỏa mãn có được từ việc cứu rỗi chỉ là một sự chấp nhận sai lầm trong tim. Cho dù có giúp ai đó thì nó cũng không giúp gì được cho ta. Và dù có giúp ích cho ta thì ta cũng không biết chắc rằng mình đã thật sự giúp người đó chưa. Những sự hiểu nhầm, truyền đạt sai, bất đồng ý kiến, nhận thức sai. Vòng lặp nực cười ấy là điều làm nên thế giới mà chúng ta đang sống."
Đó chỉ là một sự hiểu nhầm, sư phụ tôi đã nói thế vào lúc ấy. Thế chẳng khác nào sự tự thỏa mãn - một khiếm khuyết của nhân sinh.
"Nhưng dẫu sao, chúng ta vẫn sống trong thế giới của sự hiểu nhầm."
Lông mày của cô gái đứng trước mặt tôi cau lại.
Trong đôi mắt màu hồng tím nhạt của cô ta có hình ảnh phản chiếu của tôi.
Trong đôi mắt của chính tôi cũng có hình ảnh phản chiếu của cô ấy.
Nhưng sự phản chiếu này hầu như khác hẳn với sự phản chiếu khi người ta nhìn vào tấm gương. Bởi vì tâm của chúng tôi không hoàn toàn đồng nhất, cho dù thông tin tiếp nhận giống nhau nhưng cách hiểu lại khác nhau. Cho dù chúng tôi nhìn cùng một vật, với cùng một màu mắt, nói về cùng một chuyện, nhưng tôi không chắc là hai người chúng tôi có cùng một cảm xúc.
Mọi thứ trên thế giới này đều như thế.
Không chỉ riêng đối với ma thuật. Không chỉ riêng đối với những sinh vật khác người. Trong một thế giới của những điều hiển nhiên, đó là chuyện mà ai cũng hiểu.
Nếu nói những sự hiểu nhầm, truyền đạt sai, bất đồng ý kiến, nhận thức sai là thứ liên kết người ta lại với nhau, vậy thì...
"Sự hiểu lầm chính là chúng ta. Sự hiểu lầm chính là thế giới của chúng ta. Những sự thật chúng ta có thể chạm đến rất đa dạng và phong phú, không phải chỉ có một sự thật duy nhất. Dù có thông thái đến đâu, có bỏ ra nhiều thời gian cỡ nào, ta cũng sẽ không bao giờ tìm được chân lý đơn nhất. Pháp sư có lẽ là loại người vẫn cứ chối bỏ thực tế ấy."
Như thể đang tự hạ thấp bản thân, sư phụ tôi mím môi lại.
Thầy cuối cùng cũng nhận ra rằng lời nói của mình và mục tiêu mà tất cả các pháp sư theo đuổi - "Vòng Xoáy Căn Nguyên" - là hai điều đối nghịch nhau.
Đồng thời… sau khi thuật lại lời của sư phụ tôi đến đây, tôi vừa chợt hiểu ra lý do mà mình nhớ lại những lời ấy.
"Nếu em quên đi điều đó, và cố mong cầu cái sự thật duy nhất một cách thiếu suy nghĩ - tiểu thư à, hãy nhớ rằng chính điều đó mới thực sự là điều tồi tệ nhất đấy."
Lời nói của thầy đúng hay sai, tôi vẫn chưa biết được. Để đưa ra nhận định đó, tôi tiến rất gần về phía sư phụ tôi, và dĩ nhiên là rất xa so với việc trở thành một pháp sư.
Nhưng đó chắc chắn cũng là sự thật về lâu đài ấy.
Sự chấp nhận sai lầm và hiểu biết sai lầm.
Sự bất đồng ý kiến và nhận thức sai lầm.
Vòng lặp nực cười ấy là thứ trói buộc người ta với lâu đài đó.
Từ xưa rất xưa, để tạo ra dạng sơ khai của thực tại, chúng tự kết hợp lại thành một hình thái duy nhất. Như để hỏi rằng nếu không tồn tại diện mạo nào phù hợp với chúng, thì bằng sự tồn tại như những câu truyện vô nghĩa, chúng bắt ép mọi người.
-Vậy nên.
Ít ra thì hãy để chúng tôi kể câu truyện này.
Giống như, theo kiểu tương tự với những hồ sơ vụ án của vị thám tử sống ở đường Baker của Luân Đôn[1].
Tôi không được như sư phụ tôi, hay như một tiểu thuyết gia, nên câu truyện sẽ không được trôi chảy cho lắm.
Tuy vậy, đây là cách duy nhất để tôi có thể chống lại những sự kiện đang diễn ra trong lâu đài đó.
Chương 1[]
Vào một buổi sáng sớm mùa Thu, sư phụ tôi gọi tôi đến.
Đây là lần đầu tiên thầy cho gọi kể từ khi tôi đặt chân đến Luân Đôn vào hai tháng trước, nên tôi có hơi bất ngờ. Sau khi thông báo với người quản lý ký túc xá Krishna, tôi quay lưng rời đi. Tôi tưởng một người hăng hái quá mức trong việc giúp đỡ người khác như anh ta sẽ đi cùng, nhưng rút cuộc, anh ta lại từ chối cùng một lời xin lỗi.
Trên đường đi, tôi đột nhiên thấy choáng ngợp.
Rất đông người qua lại ngoài vỉa hè.
Hoặc có lẽ do mùi dầu mỡ của món cá và khoai tây chiên, hoặc cũng có lẽ là do khí thải của loại xe buýt hai tầng nổi tiếng.
Những người đàn ông, ra đường trong bộ áo khoác trench-coat,
Những người phụ nữ, quấn quanh người bằng khăn quàng vai và khăn quàng cổ,
Những đứa trẻ, bàn tán ồn ào khi lên xe buýt…
Thật là quá đông người.
Dân số Luân Đôn vào khoảng tám triệu người, nhưng tôi vốn gặp rắc rối trong việc hiểu về ý nghĩa của những thứ có con số trên một trăm. Việc cố gắng hiểu về số lượng người nhiều không thể tưởng tượng nổi này khiến tôi nản lòng. Nếu phải so sánh, tôi sẽ bảo rằng nó khiến tôi liên tưởng tới nghĩa trang.
Người chết xếp từ hàng này đến hàng kia, tích tụ từ bao đời… Để cho dễ, tôi đưa ra một hình ảnh so sánh nặng nề.
…Không.
Tôi nghĩ lại.
Bản thân thành phố này giống như một nghĩa trang, phải không nhỉ?
Không phải vì nó khiến tôi nghĩ đến cái chết. Nhưng với nguyên cả một đám đông lớn tụ lại một nơi và dành đại đa số thời gian của họ trong những tòa nhà màu nâu và xám, như thể họ đều hướng về đích đến cuối cùng của mình. Theo như những gì đã học về khái niệm Địa Ngục và Luyện Ngục[2], không hiểu sao nó lại khiến tôi liên tưởng đến thần Hades[3] trong thần thoại.
-À, dĩ nhiên rồi.
Người ta gọi đấy là cảm tính của "đứa nhà quê".
Ở bất cứ nơi nào có đông người tụ tập thì đây cũng là khung cảnh hiển nhiên mà con người ta mong đợi. Dù hiểu về lý thuyết nhưng tôi vẫn cảm thấy hơi buồn, rằng cả chục năm sống ở miền quê vẫn còn trói buộc lối suy nghĩ của tôi.
Tâm trí trong quá khứ và hiện tại không thể phân định rạch ròi, nên dẫu bây giờ thả mình trong dòng suy tưởng thì tôi cũng sẽ lo nghĩ về chuồng gà, hoặc ai sẽ quét dọn nhà thờ, rồi thì tôi sẽ trở nên bồn chồn. Nếu không phải vì sư phụ gọi đến thì chắc tôi sẽ dành phần thời gian còn lại của mình ở nơi đó.
Nhưng suy xét xem đó có phải là hạnh phúc hay không thì lại là một chủ đề khác.
Mặc dù đang ngẫm nghĩ những điều trên, tôi vẫn bước đi. Vừa nhìn xuống dòng sông Thames, tôi vừa bước lên Cầu London.
Sang bên phía Nam của cây cầu phiên bản hiện đại được khánh thành bởi Nữ Hoàng Elizabeth II, không khí của thành phố thay đổi đột ngột. Số người vãn cảnh có vẻ giảm xuống, và ở chỗ này, mọi người đều chạy đan xen nhau, tạo nên một cảm giác đặc trưng của khu thương xá - nói như thế nghe có vẻ hay ho, nhưng về tổng thể thì nên nói là nó giống như trật tự công cộng bắt đầu rối loạn. Giống như giai thoại nổi tiếng rằng chợ Bermondsey là nơi cho phép bọn trộm cắp buôn bán đồ vậy.[4]
Nhưng đó là chuyện quá khứ.
Dưới những mái vòm bằng gạch bụi bặm, tôi bước sang đường Druid, rồi sang con đường ngoặt gần đó, sự hiện diện của những người khác đột ngột biến mất. Một Kết Giới, sư phụ tôi gọi nó như thế. Theo như lời của sư phụ, không cần phải dùng đến ma thuật để dựng nên một kết giới. Một nơi tự bản thân nó xua đuổi người thường mà không cần đến ngoại lực, sức mạnh huyền bí, là phương thức hoạt động tốt nhất của kết giới, hoặc đại loại thế. Ừ thì định nghĩa này dù sao cũng xuất phát từ Phật Giáo, và Khái Niệm xua đuổi người thường là điều cơ bản hơn nhiều so với ma thuật, một chức năng nền tảng của não bộ, và nhiều điều liên quan khác nữa cũng được đưa ra bàn luận, nhưng tôi không nhớ được nhiều hơn thế.
Nhưng có lẽ nó là điều thật sự quan trọng cần phải ghi nhớ.
Rất tiếc, tôi không phải là một người sáng dạ.
Đây là một điều nữa mà tôi đã phải đau đớn nhận ra kể từ khi đến Luân Đôn cách đây hai tháng. Nhờ có sự tiến cử của sư phụ tôi mà tôi mới được nhập học tại Tháp Đồng Hồ, nhưng tôi không thể hiểu bất cứ điều gì trong hơn phân nửa số lớp học ở đây. Ở tại trung tâm của nơi dạy và học này, nếu người nào có ý muốn tìm tôi thì chắc chắn rằng tôi sẽ mang một vẻ mặt ngu ngơ như thể vừa bị cả một núi vàng đè lên người.
Chuyện này có hơi thất vọng, nhưng nếu phải đưa thêm một lời nhận xét nữa thì tôi sẽ nói rằng sư phụ tôi vốn cũng không tài giỏi như vậy. Nếu cố gắng dựng một kết giới bằng chính khả năng của mình, thầy sẽ chỉ đủ sức dựng được cái yếu nhất trong những loại thấp kém nhất, cho nên có lẽ thầy đặc biệt chọn nơi này để không phải làm việc đó. Hoặc ít nhất là tôi nghĩ thầm như thế.
Khi nghĩ đến đây, tòa nhà màu nâu đỏ nhạt, nơi có căn hộ của sư phụ tôi, đã xuất hiện trong tầm mắt. Vào buổi sáng mùa Thu ấy, nó vẫn đứng ở đấy, trông vẫn bất hạnh như bao lần.
Đa phần những nơi sống như thế này được gọi là Flat ở nước Anh. Dù sao thì tôi vẫn gọi là căn hộ chứ không bắt chước cách nói của sư phụ tôi, nhưng tôi không biết tại sao thầy lại gọi như thế. Dù sao thì chung cư chỗ sư phụ tôi vẫn dễ sợ như mọi khi. Cây thường xuân bao quanh tòa nhà, và các hạt nảy mầm giữa kẽ nứt đem đến một vẻ cuốn hút dễ chịu, nhưng những bức tường gạch nâu đỏ nhạt và ống khói nứt nẻ quá nhiều, thậm chí một cơn gió cũng làm các mảnh vụn rơi xuống lả tả. Có rất nhiều ngôi nhà cổ ở Châu Âu, nhưng nơi này thuộc một cấp độ khác. Ước tính sơ sơ cũng dễ thấy nó phải hơn một trăm tuổi. Về điểm này, dù người ta có bảo nó được xây vào lúc diễn ra Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp thì nghe cũng đáng tin.
Bởi thế, nó trông yếu đến nỗi chỉ cần đẩy một bên của tòa nhà nghiêng một chút là nó sẽ bắt đầu một chuỗi phản ứng dây chuyền khiến cho toàn bộ sập xuống. Không kiềm chế ý nghĩ này, tôi thầm cầu khấn, mong cho không xảy ra việc như thế, trong khi thận trọng đẩy cửa chính mở ra.
Bước vào trong tiền sảnh vô cùng rộng rãi, vai tôi rụt vào theo bản năng trước âm thanh vang đến từ người nào đó đang hét lên giận dữ.
"Đừng có giỡn mặt tôi!"
Tiếng nói vang qua sảnh.
Phần giữa tiền sảnh bị án ngữ bởi một cầu thang xoắn lớn. Trở lên ba tầng thì có thể thấy các cánh cửa dẫn đến từng căn hộ khác nhau. Chúng đủ gần để những người chủ của chúng dễ dàng nghe được tiếng kêu giận dữ ấy, nhưng không ai trong số họ có vẻ sẽ phản ứng lại. Không có vẻ gì là họ có lớp cách âm trong phòng mình, thế có nghĩa là họ đã quen với tiếng ồn này chăng? Một bên sảnh là một quầy nhỏ dành cho người quản lý tòa nhà, nhưng qua ô cửa sổ, tôi chỉ thấy mỗi một bà già, lắc lư trên chiếc ghế bập bênh.
"...Mieeo."
Con mèo ngồi trên lòng bà già kêu lên một tiếng nhỏ trước khi một lần nữa khép mắt lại và quay về với giấc ngủ. Thấy vậy, tôi tự dưng muốn làm điều tương tự.
Nhưng lờ đi lời triệu gọi của sư phụ mình là điều không thể chấp nhận được, nên thay vào đó, tôi đi lên tầng hai.
Trong lúc đi trên cầu thang, tiếng nói càng lúc càng rõ hơn.
"Cô cũng biết rõ như tôi rằng lâu đài đó phiền phức ra sao! Lại còn chúc thư nữa chứ! Tại sao cô lại nhận lấy một công việc như vậy?!"
Tiếng nói bực tức nghe như xét nét và thiếu tế nhị. Mong muốn trốn tránh trong tôi càng lúc càng tăng. Nghĩ đến những lời phàn nàn của sư phụ tôi, điều tôi muốn làm là quay lại và chạy biến đi.
Nhưng mà.
"Đây là kết quả sau khi em đã cân nhắc nghiêm túc rồi đấy chứ." Người nói chuyện với thầy đáp lại. Đó là giọng của một phụ nữ trẻ. Tuy giọng nói nhẹ nhàng nhưng rõ ràng là có ác ý. Cô ta hình như không dấu được sự thật rằng mình đang lấy làm khoái trá với việc này, hoặc có thể cô ta vốn không hề có ý định che giấu điều đó.
"Nếu cô đã nghiêm túc cân nhắc thì làm thế nào mà lại có kết luận này?"
"Cố nhiên, việc này là thuận theo ý nguyện của ông anh vĩ đại của em."
"Ý nguyện của tôi?"
Đáp lại câu nói nghe-có-vẻ-đáng-ngờ của sư phụ tôi, tôi có thể cảm nhận thấy một nụ cười tinh quái.
Nếu không có cánh cửa che khuất thì chắc chắn tôi đã thấy được nụ cười đắc thắng ấy.
"Giả dụ. Nếu anh giải quyết được vụ này êm đẹp, thì nếu như anh đột nhiên muốn nói gì đó kiểu như 'Tôi muốn đi đến Viễn Đông.", thì anh có thể vẫn còn kịp thời gian, phải thế không? Tháp Đồng Hồ vẫn chưa quyết định ai sẽ tham gia 'Cuộc Chiến Gì Đó', phải không? Nếu anh muốn làm điều gì để lọt vào cuộc chạy đua ấy thì anh không còn nhiều thời gian nữa đâu."
Như thể gặp phải một lời biện minh xuất sắc, giọng thầy chuyển sang rền rĩ.
Cùng với tiếng nghiến răng, câu gì đó nghe như lời chửi rủa được buông ra.
"Cô là ác quỷ đấy à?"
"Là đứa em gái đáng yêu dễ mến của anh đấy chứ."
Cứ như tôi được nghe thấy tiếng nói của một người kể chuyện chuyên nghiệp.
Tôi đoán có một cái gật đầu, và như để xoa dịu đối phương, cô ta hạ giọng nói.
"Nào nào, ông anh đáng kính của em. Em cũng đã nghĩ cho cảm xúc của anh nữa mà."
"Vậy thì nó ra sao?"
"Tự nhiên, em ngẫm lại thực tế là anh chọn sống ở đây, trong căn hộ của riêng mình thay vì dinh thự El-Melloi. Quá rõ ràng là anh ở đây thì phải trả tiền thuê trọ cho tòa nhà thuộc sở hữu của chính gia tộc mình; một chuyện vô lý ngay trong chính bản thân điều đó."
"Trái lại ấy chứ. Tiền thuê trọ của tôi biến thành tiền trả nợ của tôi đối với nhà El-Melloi. Chẳng có phương pháp nào hữu hiệu hơn thế."
Trước lời đáp nhanh chóng của thầy, cô ta buông một tiếng cười giễu cợt.
"Ha. Ý nghĩ hay đấy, nhưng nếu anh không làm gì ngoài việc bốc một nắm cát ra khỏi sa mạc vào mỗi tháng, thì chẳng phải khi nói anh đang ra sức vét bỏ sa mạc là có chút quá cường điệu ư?"
"Đấy chỉ là vấn đề cảm xúc. Dù sao thì tôi không có ý định dựa dẫm vào của cải của nhà El-Melloi."
"Vì không hề ham muốn của cải của nhà El-Melloi, chẳng phải việc ra sức trả nợ cho chỗ của cải nói trên là có phần giống như đầu tư ngược ư?"
Có gì đó trong lời giễu cợt đến từ sau cánh cửa đóng mang vẻ vui sướng. Nó gợi cho tôi liên tưởng đến một người chủ độc ác đang khoái trá xem con mèo nuôi của mình dựng lông và trừng mắt. Có vẻ như không thể phủ nhận rằng yếu tố xác định về tôn ti trong mối quan hệ giữa hai người họ không liên quan đến tuổi tác mà là điều đã có từ khi họ sinh ra.
Quả nhiên, sau một hồi rền rĩ, cuộc nói chuyện tiếp tục.
"Tôi muốn ra điều kiện."
"Ô?"
"Đầu tiên, tôi sẽ tự mình đảm nhiệm toàn bộ vụ án. Tiểu thư của tôi à, tôi sẽ không cho phép cô nhúng tay vào."
Bằng một quyết định giống như chẳng thể cầu mong gì hơn thế, thầy bướng bỉnh tuyên bố.
"Việc đó có vấn đề gì ư?"
Người kia cười nhạt. Như thể biết rằng chủ nhà không tiếp đón lâu hơn nữa, tôi nhận thấy cô ta đứng lên.
"Được rồi, được rồi. Vậy thì, ông anh yêu quý ạ, em sẽ giao lại mọi việc cho anh."
"…Ồ."
Tôi nhanh chóng lùi khỏi cánh cửa, để tránh lộ ra bộ dạng như đang nghe lén. Thật ra tôi muốn tìm chỗ trốn, nhưng người đang tiến đến từ phía bên kia cánh cửa không di chuyển nhàn nhã để cho tôi làm thế.
Vài giây sau, cánh cửa mở ra, một mái tóc vàng óng xuất hiện. Ngay sau đó, làn da trắng xám làm người ta liên tưởng đến búp bê sứ, và cả trang phục lẫn phong thái cũng tương đồng với hình ảnh so sánh ấy. Nhưng điều ấn tượng nhất về chị ta nhất định là đôi mắt - rực sáng như lửa, đầy mạnh mẽ và kiên định. Khi đôi mắt ấy hướng về phía tôi, chúng vẫn không thay đổi. Tôi không thể không tự hỏi, đối với một cô gái trông không quá mười lăm tuổi, cuộc sống thế nào đã đem lại cho chị một đôi mắt như thế?
Reines El-Melloi Archisorte.
Em nuôi của sư phụ tôi, và là người ấn định thầy vào chức vụ Lord. Theo sau lưng chị là một hầu gái với dáng vẻ có phần khác lạ.
Điểm kỳ lạ là màu da của cô ta. Cô ta không mang nét của người da trắng, hay người da đen, hay người da vàng. Không, màu da của cô hoàn toàn không giống con người - màu sáng bạc. Người hầu gái, nghe nói được đặt tên là Trimmau, thật ra là một thiết kế tiên phong trong lĩnh vực Hình Nhân Tự Động. Nghe nói mặc dù lĩnh vực ma thuật liên quan đến việc tạo ra người nhân tạo vốn đã bắt đầu tụt dốc, nhưng riêng Hình Nhân Tự Động này lại hoàn toàn khác về mặt bản chất nên không chịu chung số phận ấy, nhưng đó là điều một người như tôi không thật sự hiểu rõ.
Ánh mắt của Reines lập tức chú ý đến tôi.
"Ô? Vậy ra em cũng đến đây à."
"…Vâng."
Phân vân xem nên đáp lại thế nào, tôi thu ánh mắt lại, và lập tức nhận được một nụ cười dễ thương từ chị. Với nụ cười châm chọc, cô gái tóc vàng mở miệng lần nữa.
"Cuộc sống làm đệ tử ra sao? Sư phụ ma mãnh của em có trêu ghẹo gì em không?"
"…Ừmm… So với ở miền quê, sống ở đây dễ chịu hơn."
Như thể đọc thấu suy nghĩ của tôi, chị gật gù.
"Hô hô, như vậy tốt đấy. Dù sao, người như anh trai chị mà lại nhận đệ tử thì không phải để làm chuyện đơn giản như công việc nhà. Có thể nói, em giống như phòng tuyến cuối cùng. Em hiểu không? Đó là một trọng trách, em biết chứ?"
"…Em sẽ cố gắng hết sức."
Không biết phải đáp lại thế nào, tôi ngoan ngoãn đưa mắt nhìn xuống. Khi tôi làm vậy, Reines vươn ra một ngón tay trắng nõn.
"Em trông đáng yêu hơn khi bỏ mũ trùm xuống đấy, biết không."
Bằng một cái vỗ nhẹ lên mũ trùm của tôi, chị đi ngang qua tôi và bắt đầu bước xuống cầu thang xoắn. Thật sự thì tôi có phần ngưỡng mộ chị ấy. Hai người họ không có quan hệ huyết thống nhưng họ vẫn là người trong một gia đình, nên tôi không thể không nghĩ rằng thật hay khi sư phụ tôi được kế tục từ một nhân vật giống như vậy.
Nhưng thế giới thực tại là một thế giới vô tình.
Lòng thầm buông một tiếng thở dài, tôi xốc lại tinh thần-
"…Em xin phép vào ạ."
-và mở cửa ra.
Một đám bụi ập đến bất chợt khiến tôi ho một tiếng.
Bên trong đúng y như những gì người ta tưởng tượng về một căn hộ rẻ tiền. Cũng như về kích thước, nó chẳng có gì đặc biệt, nhưng nếu không tính đến giới hạn không gian thì đồ vật cũng linh tinh bề bộn. Không hề theo một trật tự nào, mọi thứ xếp lung tung từ sách, cái bàn kiểu cổ điển, vài mẩu bánh mì mốc, và không hiểu sao còn có một số máy chơi game console cũ rích, tất cả đều gói gọn trong không gian nhỏ hẹp của căn phòng.
Nếu hỏi, thầy sẽ nói chúng đều là những đồ vật rất quan trọng, nhưng thầy thật sự là một người không hề nhận biết hiện trạng đồ dùng của chính mình. Nhưng từ cách mà thầy vất vả tìm đồ, luôn luôn phàn nàn về việc không thể tìm ra cái này hoặc cái kia, thì ít có khả năng thầy không hiểu tình huống của mình, và nhiều khả năng là thầy không thể dọn dẹp gọn gàng. Trước đây, tôi từng xin phụ giúp dọn dẹp nơi này một chút nhưng lời đề nghị của tôi lập tức bị từ chối. Thầy nói rằng thầy muốn yên tĩnh một mình trong ngày nghỉ lễ của mình, nhưng thật sự mà nói thì tôi không thể nghĩ ra thầy làm gì một trong căn phòng như thế, kể cả trong ngày nghỉ lễ.
Thận trọng để không dẫm phải mẩu bánh mì và những cuốn sách vất vưởng trên sàn - đồng thời tự hỏi làm sao mà Reines và người hầu của chị ấy qua được chỗ này - tôi đi đến cái bàn lớn ở giữ căn phòng, gần bên ghế sofa mà sư phụ tôi đang nằm thượt ra.
"Thưa sư phụ."
…Không có phản ứng.
Nằm trên sofa như mất hồn, mí mắt của thầy tỏ dấu hiệu cho thấy thầy đang trong tâm trạng cố gắng chối bỏ thực tại. Nếu niềm kiêu hãnh của thầy cho phép thì tôi đoán thầy còn muốn bịt tai lại và hét lên nữa. Thầy có thể là sư phụ của tôi nhưng mà thầy vẫn dễ dàng gục ngã khi gặp phải những chuyện như thế.
"Là đệ tử, Gray đây ạ."
Để cho chắc chắn, tôi nhắc lại lần nữa, nhưng như đã đoán, thầy vẫn không có phản ứng. Bỏ cuộc, tôi chuyển ánh mắt sang cái bàn. Giữa một đống bừa bộn là một khoảng trống trông như mới vừa được dọn. Đặt tại đó là một tách trà còn ấm, cùng với một xấp ảnh chụp. Tôi không mấy hứng thú với chúng nhưng một trong những bức ảnh thu hút sự chú ý của tôi.
Chỉ là nó trông rất… kỳ lạ.
Nó trông như một phần của một bức tranh tôn giáo. Bức họa mô tả cảnh một bầu trời, tràn đầy vẻ liêng thiêng và mộc mạc. Điểm nhấn của bức tranh lại trông bất hợp lý hết sức - một bánh xe phát sáng. Nổi bật giữa không trung, nó trông như người gác cánh cổng thiên đàng, vành ngoài của bánh xe là các con mắt xếp thành hàng và cùng nhìn chằm chặp vào tôi.
"…Quái vật bánh xe ư…?"
"…Ta không yêu cầu em phải văn vẻ hơn hay gì đâu, nhưng chẳng lẽ không thể diễn tả cho phù hợp hơn một chút nào sao?"
Khi tôi đang xăm xoi bức họa với cái đầu nghiêng sang bên, một tiếng nói đầy vẻ mệt nhọc hướng đến tôi.
"A, sư phụ."
Như thể phải làm một động tác phiền hà, sư phụ tôi dựng nửa thân trên khỏi sofa và gãi đầu. Từ vẻ bề ngoài, thầy trông khoảng 30 tuổi. Làm cách nào mà thầy giữ được bộ tóc dài với lối sống đó là một điều bí ẩn, nhưng bộ tóc được chăm chút đủ để cho thấy tính lập dị của thầy không đến nỗi đáng khinh. Có vẻ như là nhờ thầy được nuôi dạy trong một gia tộc thịnh vượng.
"Có thể về cơ bản chỉ là tạm thời, nhưng dù vậy, khi làm một đệ tử của pháp sư, em làm ơn đừng buông ra từ 'quái vật' một cách dễ dãi như vậy. Thứ này là một trong các Thiên Sứ điển hình đấy."
Vừa nói, thầy vừa vỗ vào tấm hình trên bàn.
"Một Thiên Sứ? Thứ này có chỗ nào giống một Thiên Sứ?"
"Hình tượng Thiên Sứ với dạng hình người có cánh đã trở nên khá phổ biến, nhưng thật ra nó ảnh hưởng chủ yếu bởi hình tượng Nữ Thần Chiến Thắng Nike trong thần thoại Hy Lạp vào Thế kỷ Bốn. Thiên Sứ quả thật có thể chia thành một số dòng giống. Trong trường hợp này, có lẽ hữu hiệu nhất là nên bắt đầu giải thích từ chuyện Thiên Sứ thật ra là gì."
Chống cằm, sư phụ tôi bắt đầu nói bằng giọng làu bàu.
"Đầu tiên là dạng sống tồn tại cao hơn và vượt trên thần thoại, dạng sống đã được thay đổi phân loại thành Thiên Sứ. Thứ hai là sinh thể được sinh ra từ quyền lực của một chủ thể gốc, sinh thể trở thành Thiên Sứ sau quá trình biến đổi thành cá thể độc lập. Có một số giả thuyết, như Ngai Thần [Throne] mà em thấy ở đây có lẽ là dạng gần gũi với chủ thể. Nhận lấy Quyền Năng [Power/Quyền Thần] của chủ thể vào trong mình, nó là một Thiên Sứ với mục đích chính chỉ là vận chuyển Quyền Năng đó."
"Vậy nó là một bánh xe, bởi vì nó đang được dùng để vận chuyển Quyền Năng đó?"
"Lời giải thích hiện thời thực ra là ngược lại. Có thể Thiên Sứ này được sử dụng để vận chuyển Quyền Năng bởi vì nó là một bánh xe. Trong Kinh Thánh, trong các ghi chép của nhà tiên tri Ezekiel, có một đoạn tả rằng 'những con mắt đính trên bề mặt của một bánh xe phát sáng như beryl'[5]. Nói ngoài lề một chút, thậm chí có những thuyết nói rằng đây là thứ mà người thường thấy được khi tuyên bố rằng họ nhìn thấy vật thể bay không xác định."
"Thiên Sứ là… vật thể bay không xác định ư?"
Sự biến đổi nhanh đến không ngờ trong cuộc bàn luận khiến tôi nhảy ngay vào kết luận. Thấy thế, sư phụ tôi bắt đầu cười. Xét thấy tâm trạng của thầy đột nhiên tốt lên như vậy, hình như chúng tôi vừa đụng đến một đề tài mà thầy đặc biệt hứng thú.
"Có một nhóm người vào Thế kỷ 20 đã gọi mọi thứ là vật thể bay không xác định, hình như thế. Mọi thứ từ tranh lễ thanh tẩy cho Chúa đến bích họa ở Ai Cập, 'không nghi ngờ gì', là do vật thể bay không xác định. Không có bất kỳ ý nghĩa sâu xa đặc biệt nào, bánh xe bay trên trời đúng là như làm khơi dậy trí tưởng tượng. Trước hết, đa phần các báo cáo ghi nhận là do dân hippy, mấy người này chẳng qua là hút thuốc phiện quá nhiều, chính đầu óc của họ mới là thứ bay... Sao đột nhiên em lại có vẻ mặt đó vậy?"
"Ồ, em chỉ đang nghĩ, đúng là có nhiều người giống sư phụ trên thế giới này nhỉ?"
"Đừng có đánh đồng ta với mấy người đó. Đôi khi, những lập luận cưỡng ép là cần thiết, nhưng ma thuật làm sao có thể kết thành từ việc chắp vá toàn những kiến giải chủ quan được? Nói chung, ở mức độ này thì nó chẳng phải xu hướng của pháp sư, mà là vấn đề giáo dục phổ thông rồi."
Bất chấp câu nói đại loại như "mặc dù em là đệ tử tạm thời" lúc nãy, thầy khéo léo rút lại những lời đã nói trong cái cười quá mức cần thiết. Dường như gương mặt thầy thấp thoáng vẻ đắc thắng, tính trẻ con và nhỏ mọn dung hòa một cách khốn khổ với nhau.
Thầy được gọi là El-Melloi II.
Trong 12 đại gia tộc của Tháp Đồng Hồ, danh hiệu mà thầy được ban là Lord của dòng họ quý tộc El-Melloi.
Có lẽ nói hơi trễ nhưng sư phụ tôi quả thật là một pháp sư.
Ma thuật là thuật kỹ hiệu triệu các thành phần cơ bản của Thế Giới, thông qua việc sử dụng
Có một điều mà tôi biết chắc chắn, rằng việc làm một pháp sư nghĩa là quay lưng lại với thế giới, và hy sinh tất cả không vì lợi ích gì khác ngoài cho bản thân và ma thuật của mình. Tôi từng nghe nói rằng mọi hành động nhằm che giấu ma thuật khỏi con mắt bàng dân thiên hạ là vấn đề quan trọng, nhưng thỉnh thoảng tôi lại thầm nghĩ rằng pháp sư chẳng qua chỉ là những người thích giam mình trong phòng và trốn tránh thế giới bên ngoài.
Cho nên…
"…Em hiểu câu chuyện về Thiên Sứ rồi."
Cố gắng che giấu cảm xúc trên gương mặt của mình, tôi cúi đầu xuống.
Phải, đây là sư phụ tôi.
Có thể trong xã hội đương đại có những khác biệt, nhưng ít nhất thì ở nơi tôi sống trước đây, thông thường người ta dành cho cấp trên của mình sự tôn trọng tương xứng. Nên dù sư phụ tôi không được yêu mến, tôi vẫn phải tỏ ra lễ độ.
"…Nhân tiện, thầy không có ý định sống trong dinh thự với tiểu thư Reines sao ạ?"
"Ta làm sao sống cùng với cái con ác quỷ đó được chứ? Dạ dày của ta sẽ bị hỏng trong ba ngày mất. Mà không, nó đã hỏng rồi đấy."
Nằm trên sofa và xoa bụng, sư phụ tôi làm ra bộ mặt sưng sỉa. Một thoáng sau, thầy buông một tiếng thở dài.
"Dù sao, ta đã nói là sẽ nhận nhiệm vụ, nên ta cần ít nhất vài phương án tối thiểu."
"…Ha."
Vì tôi không biết rõ chi tiết về cuộc bàn thảo của họ nên chẳng có gì cho tôi làm ngoài đưa ra một lời đáp có vẻ phù hợp nhưng thực chất là vô nghĩa. Như thể nhận ra gì đó, sư phụ tôi nhắm một mắt lại và hừm một tiếng.
"Tiện thể, em nghĩ gì về Thiên Sứ?"
"…Lại nữa ư?"
Chắc hẳn là cái vẻ không khoái đề tài này hiện rõ ràng trên mặt tôi. Bất kể nó có liên quan đến ma thuật hay không, tôi khá là yếu kém trong các cuộc nói chuyện dài dòng. Thực sự thẳng thắn mà nói, đối với tôi thì người sống nói quá nhiều. Đặc biệt là người thành phố.
"…Ờ, họ là sứ giả mà Chúa phái đi để ban phúc cho con người, phải không ạ? Hồi xưa, linh mục gần nhà em thường hay nói về họ."
"Ta không hỏi về chúng theo quan điểm thông thường. Ý ta là, em nghĩ gì về chúng theo khía cạnh liên quan đến ma thuật?"
"I hi hi hi! Dù mi có nói thế thì cô ta cũng không thể nào hiểu nổi đâu! Vì dù sao cô ta cũng hơi ngốc mà!"
Đột nhiên, một giọng hoan hỉ vang lên.
Vốn dĩ, những người duy nhất trong phòng là sư phụ tôi và tôi. Nên tiếng nói này hẳn là của người thứ ba không thấy chân tướng. Cả sư phụ tôi lẫn tôi đều biết ai là chủ nhân của giọng nói đó, nên cả hai đều không mấy ngạc nhiên. Đúng hơn thì, vì biết rằng bận tâm đến lời nói đó là lãng phí thời gian, chúng tôi chỉ đơn giản là lờ đi càng nhiều càng tốt và tiếp tục với bài giảng.
"…nhưng thật lòng mà nói thì em cũng không sáng dạ cho lắm."
"Đó không phải là vấn đề. Dù không tính đến thực tế, em là đệ tử của ta, ta sẽ không ngồi yên và để người của ta bị sỉ nhục ngay trước mặt ta. Hãy nhớ điều đó."
Âm thanh nghe như tiếng vọng của thứ gì đó đóng sầm lại.
Có lẽ vì sự thay đổi giọng điệu bất ngờ trong cuộc nói chuyện vừa rồi, tiếng nói thứ ba đột ngột rút lui vào im lặng.
Khi đã lắng dịu lại, sư phụ tôi vươn tay về phía cái bàn. Lấy một điếu xì-gà trong hộp đựng bằng kim loại, thầy dùng một con dao để cắt một đầu. Bật lửa, thầy châm điếu xì-gà và rít một hơi sâu. Sau khi xong, thầy đan tay lại tựa lên đùi.
"Vậy thì ta hãy bắt đầu một bài giảng mới."
Trong tư thế thả lỏng, thầy bắt đầu nói.
"Trước tiên, hãy bắt đầu từ Thiên Sứ mà em đã nói lúc nãy, sứ giả của Chúa. Điều đó cũng đúng. Thật ra, Thiên Sứ được sử dụng trong ma thuật cũng lấy nền tảng từ điều này. Năng lực của Thiên Sứ ban phát phước lành của Chúa là mối quan tâm của pháp sư trong thời đại ngày nay. Cụ thể là, công dụng của Thiên Sứ hiện đang trong tình trạng được tái phát minh bởi các pháp sư thời nay."
Mặc dù là một lời giải thích gần như lặp lại, nhưng lần này tôi có thể hiểu được rõ ràng. Sự khác biệt hiển nhiên. Lời giải thích trước nói về một người chung chung, trong khi lời giải thích này là kiểu bài giảng tại Tháp Đồng Hồ. Không còn vẻ lừ đừ trước đó, sư phụ tôi hiện đang nhìn tôi từ bên kia cái bàn bằng một ánh mắt sắc sảo.
…Đúng vậy.
Sư phụ tôi không tài giỏi cho lắm nếu xét về mặt ma thuật.
Điều này không phải là châm chọc, hoặc khiêm tốn, hoặc coi thường. Quả thật trong trường hợp này, dù tốt hay xấu, thầy chỉ là bình thường. Cho dù thầy hiện đang có vị thế ở Tháp Đồng Hồ nhưng chưa từng nghe nói người ở địa vị ấy mà vẫn ở Bậc Bốn, hoặc theo như tôi được nghe rất nhiều lần từ những người khác trong hai tháng ở tại nơi đây. Mặt khác, giá trị của sư phụ tôi không hề thấp về mọi mặt.
Là một giảng viên, thầy có thể đem đến những thành tích đáng kinh ngạc. Về điểm này thì tôi, hiện đang là đệ tử riêng của thầy, đang bị tụt hậu so với các bạn học khác. Đối với niềm vinh dự được kèm cặp riêng bởi Lord El-Melloi II, tôi cảm thấy những cái nhìn ghen tỵ xỉa xói mình.
Nếu đưa ra hình ảnh liên tưởng thì mối quan hệ của chúng tôi giống như một tay đấm bốc với người phục vụ đấu sĩ, hoặc một vận động viên với huấn luyện viên. Cho dù có tấm gương hoàn mĩ trong đầu, tôi không có khả năng đặc biệt để tái hiện chúng. Tôi không biết sư phụ tôi thực sự cảm thấy thế nào trước những trường hợp đó. Nhưng điều tôi có biết là, có nhiều biệt danh được gán cho thầy tại Tháp Đồng Hồ vì địa vị khác lạ của thầy.
Ví dụ như Professor Charisma.
Hoặc Master V.
Còn một số biệt danh khác nhưng khiếm nhã hơn, nên tôi sẽ không đề cập đến.
Dù sao thì, tôi đưa ra một câu hỏi về bài giảng vừa rồi.
"Tái phát minh? Thiên Sứ sao?"
"Đúng. Em biết về bốn nguyên tố cơ bản rồi phải không?"
Trong khi thưởng thức mùi vị của điếu xì-gà, sư phụ tôi xòe ra bốn ngón tay.
"Đất, Nước, Lửa, Gió." Vừa gọi tên chúng, thầy vừa gập lại từng ngón một. Chúng được gọi là bốn nguyên tố cơ bản, là phần nền tảng của ma thuật, và là điều mà ngay cả tôi cũng biết.
"Vào thời Hy Lạp cổ đại, chúng là bốn nguyên tố sinh ra từ Arche." Sư phụ nói.
Arche trong tiếng Hy Lạp là sự khởi đầu của vạn vật… hay đại loại thế, nếu tôi nhớ không lầm.
"Trong Giả Kim Thuật, tứ đại nguyên tố và các nguyên tố căn bản là giống nhau. Thậm chí hiện nay, đa số mọi người đều cho là vậy. Những thứ như 12 Cung Hoàng Đạo, hoặc Ngũ Hành của Đông Phương chẳng hạn, cũng không có gì khác. Chúng chỉ phục vụ như những hệ thống tiện lợi cho việc phân loại mọi sự vật trong thực tại. Mặc dù đây là bốn nguyên tố được áp dụng ở những nơi giống như Tháp Đồng Hồ, chúng ta thật ra cũng thêm vào nhiều nguyên tố khác, như Hư Vô, và các nguyên tố hóa học. Điều này hướng về mặt ứng dụng nhiều hơn, nhưng bây giờ ta đang lạc đề rồi."
"Ư, em được bảo rằng em thuộc hệ Đất."
"Phải. Về mặt ý nghĩa ấy, nó được dùng để khái quát hóa ưu điểm và khuyết điểm của em. Kết quả là, có những kẻ quái vật sở hữu thuộc tính Nhị Trùng và Ngũ Đại Nguyên Tố, nhưng hãy quay lại chủ đề ban đầu. Tóm lại, hệ thống các nguyên tố được sử dụng như một hệ thống phân loại tiện dụng, nhưng kể từ sự vươn lên của Ma Thuật cận đại vào cuối Thế kỷ 19, điều đó bắt đầu thay đổi. Bằng sự dung hợp với Khái Niệm Thiên Sứ trong hệ thống, chúng đã được trao cho một ý nghĩa mới."
"Một ý nghĩa mới?"
"Chính xác."
Nhìn xem tôi hiểu lời thầy nói đến đâu, thầy tiếp tục.
"'Vật chứa Quyền Năng' là điều mà rất nhiều người hiện nay tin vào."
Như thể đang tạo hình một chiếc Chén Thánh lên bàn, thầy gật nhẹ một cái, rồi chúng tôi im lặng.
Khói xì-gà của sư phụ tôi bắt đầu cuộn quanh bàn tay đang khum hình cái chén của thầy. Hình ảnh này khiến tôi liên tưởng đến nước thánh. Có phải Thiên Sứ cũng như thứ nước đó? Hay là vật mà thầy mô phỏng bằng bàn tay của mình?
"Ma thuật là thứ phải được giữ bí mật, nhưng trái lại, các khái niệm trở nên mạnh mẽ và vững chắc hơn khi càng có thêm nhiều người tin vào chúng. Tương tự như ảnh hưởng từ quá trình tư duy đằng sau sự Huyền Bí, các nhà thơ như Baudelaire, Arthur Rimbaud, và W.B. Yeats ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình này."
Giọng nói của sư phụ vang lên nặng nề trong không gian tù túng của căn phòng.
Tiếp đó, từ vật chứa mà sư phụ tôi tạo ra, một loại sóng ảo nào đó bắt đầu lan tỏa. Không, có thể đây thật sự là điều đang diễn ra. Có thể chẳng qua là tôi không đủ trí tuệ để hiểu về hiện tượng này, nhưng thao túng thứ "sức mạnh vô hình" như thế này vốn dĩ là kiểu hành vi của pháp sư. Các bước sóng liên tiếp lan tỏa từ bàn tay của thầy bật lại những tấm gương và bùa chú trong căn phòng và xung quanh chúng tôi.
Kiểu như chính căn phòng này đã được biến đổi thành một Thần Điện.
"Có phải em vừa nghĩ nó trông như một Thần Điện?"
"...."
"Không cần phải ngạc nhiên. Ta cố ý làm cho nó giống vậy, nên nhận định của em rất đúng. Bởi vì ta thật sự đang làm biến đổi căn phòng này thành một Thần Điện ngay lúc này."
"Hở?"
Chớp mắt kinh ngạc, tôi không hiểu ý thầy là gì.
Có lẽ gương mặt của tôi trông hơi khác lạ, bởi vì sư phụ tôi bắt đầu cười khùng khục. Thầy có vẻ đang vô cùng khoái trá, cảm giác như thể tôi đã rơi vào một cái bẫy nào đó.
"Em cảm thấy sự thay đổi khác lạ trong không khí, đúng không? Đó là một Thần Điện. Trong tiếng Latin, nó được gọi là 'templum', nhưng em chỉ cần hiểu nó là một nơi để thần có thể hiện thân tạm thời."
Có thể bởi việc bàn luận về Thiên Sứ vốn đã ngụ ý về mối liên hệ với nhà thờ, nhưng không hiểu sao tôi lại có thể dễ dàng hiểu được lời giải thích của thầy.
"Nên về cơ bản, nó không chỉ là nơi để tín đồ thờ phụng, mà là nơi để thần thánh thật sự hiển linh, nên ta gọi nó là Thần Điện, đúng không ạ?"
"Phải, chính xác. Hiện giờ, có vẻ như ta đang dùng hình tượng một chiếc Chén Thánh và những thứ khác trong phòng để làm cho nó trông giống vậy, nhưng trên thực tế, đây là vấn đề đáng kể. Bình thường đối với ma thuật thì cần có đất tế, đúng không? Nó là một thuật kỹ có thể trông tương tự với kết giới của Phật Giáo, nhưng trong trường hợp này, Thiên Sứ nằm ở cốt lõi của hiệu ứng."
"..."
Khi sư phụ tôi ngừng nói một chút, tôi cũng chìm vào trong suy nghĩ.
Một Thần Điện là nơi thần linh có thể hiện thân tạm thời. Và Thiên Sứ là "Vật Chứa Quyền Năng". Nên trong trường hợp đó, mối quan hệ giữa hai điều này là…
"Ờ… có lẽ nào đó chính là việc ban cái danh Thiên Sứ cho một thứ ma lực mơ hồ, và sử dụng nó trong ma thuật?"
"Chính xác."
Vẫn ngồi trên sofa, sư phụ tôi cầm lấy tách trà đã nguội từ lâu và đưa lên môi.
"Hồi nãy, ta có nói rằng khi càng có nhiều người tin vào khái niệm, chúng sẽ trở nên vững chắc. Nếu đã vậy, chẳng có gì là lạ khi có những người nghĩ rằng khái niệm Thiên Sứ được lan truyền trên thế giới này chính là thứ lý tưởng để làm ổn định vững chắc ma thuật. Thật ra thì khi nhìn vào một số hội ma thuật khác nhau, em có thể thấy nhiều người cho rằng tư tưởng này cực kỳ hấp dẫn."
Đặt tách trà xuống, sư phụ tôi giơ hai ngón tay.
Thầy vừa dùng hai ngón tay để vẽ hình một ngôi sao năm cánh trong không trung trước mặt mình, vừa lẩm nhẩm câu gì đó nghe như "Phía trước ta Raphael, đằng sau ta Gabriel".
"Đó gọi là Nghi Thức Tiểu Ngũ Tiêm Tinh. Nó gọi lên cái tên của bốn Tổng Lãnh Thiên Sứ, mỗi cái tên đại diện cho một trong bốn nguyên tố, để hiến tế một lãnh địa hoặc chuẩn bị thực hiện một số ma thuật tiếp theo đó. Tất nhiên, điều đơn giản như lời cầu khấn này có thể dễ dàng biết đến trong tạp chí thời nay. Tất nhiên, các nghi thức kiểu này có đầy rẫy trên thế giới, và phần lớn đều là giả, chỉ để tượng trưng, hoặc hoàn toàn vô nghĩa, nên Tháp Đồng Hồ cứ mặc kệ cho chúng như thế."
Với vẻ thỏa mãn, thầy chuyển ánh mắt sang cửa sổ. Một tia nắng lọt qua kẽ rèm cửa. Từ "kẽ" thật sự có vẻ phù hợp với những người như chúng tôi. Khoảng cách giữa chúng tôi và thế giới, những nơi tràn ngập ánh sáng, ngược lại với không gian mà chúng tôi đang chiếm hữu, và một kẽ nhỏ cho phép hai bên tương tác với nhau.
Ánh sáng nhạt nhòa, như một Thiên Sứ.
"Tuy vậy, những thay đổi của một khái niệm thật sự có tác động lên ma thuật." Sư phụ tôi lẩm bẩm.
Trong chiếc tách giờ đã được để lại trên bàn, các gợn sóng lăn tăn trên mặt nước. Dường như nghi thức mà sư phụ vừa biểu diễn đang tác động lên nó, mặc dù hơi muộn một chút.
"Hơn nữa, có thể mọi thứ chẳng qua chỉ là một phần trong kế hoạch của người nào đó. Các nghi thức sử dụng tên của Chúa để khống chế quỷ dữ xuất hiện rất nhiều vào thời xưa. Tất nhiên đối với pháp sư, đâu phải ai cũng là con chiên của đạo Cơ Đốc Giáo. Chúng ta chỉ sử dụng khái niệm phổ biển về Tên Của Chúa, mà theo đó vạn vật đều phải phục tùng. Thời xưa, nó tương tự như cách thức hoạt động của Internet Protocol [Giao Thức Liên Mạng] - Ừ thì, ta đoán lời giải thích này chỉ khiến em thêm rối rắm hơn mà thôi. Theo suy luận này, công dụng của Thiên Sứ là một điều không thể không gặp phải. Dù sao đi nữa, so với việc sử dụng tên của Chúa thì nó là khái niệm dễ sử dụng hơn nhiều."
Tôi hiểu điều đó.
Khái niệm Thần Linh là một khái niệm có một "sắc thái" cách biệt. Có thể gọi nó là niềm tin. So với nó thì Thiên Sứ rất đa dạng, ví dụ như Thiên Thần Bảo Hộ hay Thiên Thần Sa Ngã. Vì lý do đó, các loại nghi thức có thể được sử dụng để khai thác Thiên Sứ mạnh hơn nhiều.
Và vì thế cho nên sư phụ tôi gọi nó là một sự tái phát minh.
"Nào, sự phát triển của Ma Thuật cận đại ở phương Tây hầu như hoàn toàn bị chi phối bởi ảnh hưởng của những Thiên Sứ này. Không, thật ra nó không giới hạn trong Ma Thuật cận đại. Có thể khó nhận thấy nhưng khái niệm Thiên Sứ hầu như chắc chắn là có tác động lên tất cả ma thuật. Đối với các pháp sư đương đại, bất kể với mục đích lợi dụng Thiên Sứ hay tiêu diệt chúng, nhìn chung thì họ đều nắm bắt được bất cứ thay đổi nào xảy ra đối với chúng."
Sư phụ tôi nhắm mắt lại. Rồi chầm chậm nói như than thở.
"Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng pháp sư hiện đại chính là nghề sưu tập Thiên Sứ đấy."
"..."
Bất chấp sự thiếu nhạy bén của tôi đối với các vấn đề ma thuật, những từ này vẫn gây chấn động ngay cả đối với tôi. Chúng như thể thi từ, nhưng hơn thế nữa, chúng như chọc thẳng vào tâm điểm của sự thật. Như thể thầy đang tạm dừng để cho vẻ sâu xa của những từ đó lắng xuống, sự im lặng lần này kéo dài hơn lần trước.
"Và vậy là, vấn đề hiện giờ là lâu đài này." Thầy nói trong khi di chuyển ngón tay.
Thầy đang chỉ vào một trong số các bức hình xổ ra từ bao thư trên bàn. Tại một nơi có vẻ là rất sâu trong vùng hoang vu, có một lâu đài xám với các tháp nón thuôn tròn và tường thành bao bọc.
"A."
Phải.
Vốn dĩ Reines đến đây là để đưa ra một yêu cầu cho sư phụ tôi. Tôi đã bị cuốn hút vào bài giảng khiến mình quên hết mọi thứ. Cúi đầu giấu đi bộ mặt ngượng ngùng của mình, tôi nói:
"Vậy, có chuyện gì với lâu đài này?"
"Ta đã nói khi nãy, nhưng bây giờ nhắc lại, thứ mà ta đang nói đến là sự hiện diện công khai của ma thuật - về cơ bản, một thể loại ma thuật đã trở thành từ cửa miệng. Thực tế, ma thuật mà chúng ta sử dụng là thứ vượt trên nó. Sẽ là một sai sót nếu nói các thay đổi liên quan đến Thiên Sứ không tác động đến nơi đây, nhưng những chi tiết về sự tác động ấy là điều không quan trọng. Vấn đề thật sự quan trọng ở đây lại không liên quan đến chuyện đó. Thần Bí Học [Mysticism] và Huyền Bí Học [Occultism] đóng vai trò như thể cùng thuộc lĩnh vực ma thuật, nhưng chúng không tương đương nhau về mọi khía cạnh."
Gương mặt của sư phụ tôi hình như trở nên ưu tư. Thầy chỉ từng nhận những yêu cầu vô lý từ người em gái nuôi của mình, cứ như là tấm danh thiếp của chị ấy. Dù vậy, thầy không thể từ chối. Bề ngoài thì là chuyện gì đó liên quan đến một khoản tiền khổng lồ, nhưng tôi không được biết chi tiết. Điều duy nhất mà tôi biết chắc đó là nó liên quan trực tiếp đến lý do mà thầy nhận được danh hiệu Lord El-Melloi II. Bằng giọng chua chát, sư phụ tôi nói tiếp:
"Nhưng với góc nhìn là một Lord, có những pháp sư trong lĩnh vực ảnh hưởng của ta trở nên hứng thú với những ý tưởng này. Đặc biệt hơn, họ trở nên quá ám ảnh với chúng đến nỗi muốn tái tạo lâu đài này bên trong chính lãnh địa của mình. Hãy nhìn lại bức hình này."
Để ý kỹ thì thấy khá rõ ràng rằng lâu đài này có hình dáng rất kỳ lạ. Có thể thấy điều đó là do thời tiết vào thời gian chụp bức hình này, nhưng dựa theo phần ánh nắng bị chắn bởi lâu đài, tạo ra một cái bóng trông như thể chính lâu đài này có muôn vàn đôi cánh nguy nga. Lâu đài trông như một vị thần có cánh bị mất tay và đầu. Kiểu dáng của nó dễ khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh thần Nike ở Samothraces[6] mà sư phụ tôi đã nói lúc trước. Mức độ trùng hợp ngẫu nhiên đủ để khiến cho tôi thấy lạnh sống lưng.
Cứ như thể bản thân lâu đài là một cá thể sống độc lập hoàn toàn.
Đúng vậy.
…Như thể bản thân lâu đài này là một Thiên Sứ.
"Lâu Đài Biệt Cư, Adra." Sư phụ tôi nói.
"Hiển nhiên là chủ nhân trước đây của lâu đài đã gọi nó như thế. Nghe nói người chủ này có một số mối liên hệ với Lord El-Melloi đời trước. Thật ra nếu Lord El-Melloi đời trước mà thấy được chuyện gì đang diễn ra bây giờ, ông ta sẽ nhảy cỡn lên vì vui sướng. Ta cảm thấy như ông ta sẽ lại làm phiền ta hàng tiếng đồng hồ, nói gì đó kiểu như 'Đây là kết quả mà em nhận được khi đụng chạm vào những thứ không thuộc về mình'."
Lord El-Melloi tiền nhiệm.
Cũng như bây giờ, tên của ông ta vẫn được nhắc đến trong cuộc bàn luận, nhưng chuyện ông từng là một người thế nào vẫn còn là một điều bí ẩn. Những gì mà tôi được nghe kể là, khác với sư phụ tôi, ông từng là một thiên tài vô tiền khoáng hậu. Còn nữa, suy ra từ những cuộc bàn tán nho nhỏ, có vẻ như ông có hơi xấu tính, nhưng tôi không dám chắc.
Và còn một điều nữa.
Một điều mà tôi không nhận ra mãi đến sau này. Kiểu như vào khoảng sáng sớm, sư phụ tôi đã quyết định chấp nhận yêu cầu được giao từ Reines. Bất kể rằng thầy định thu xếp tạm thời hay thu thập thông tin, tôi không biết, nhưng bất kể rằng thầy đang theo đuổi cái tiến trình đi ngược với nguyện vọng của mình này, hay chỉ đơn thuần là chịu thua và chấp nhận nó, đây chắc chắn là điều khiến cho thầy bị đau bụng.
Nếu hỏi tôi tại sao thì câu trả lời là, sau khi trầm ngâm một hồi-
"…Thế nên, đúng vậy. Xin thứ lỗi nhé tiểu thư, nhưng ngày mai, ta sẽ đi đến đó một chuyến. Em có thể cảm phiền đi cùng ta không?"
Sư phụ tôi - Lord El-Melloi II, với một vẻ mặt khó chịu và giọng nói chua chát, thầy hỏi tôi câu ấy.
Người ta thường nói cây cối ở Anh Quốc thưa thớt. Không riêng gì vùng cực bắc của quốc gia bị bao phủ trong băng tuyết, mà nhiều khu rừng bị quét sạch do quá trình phá rừng vào thời kỳ Cách Mạng Công Nghiệp. Trên hết là, với ngọn núi cao nhất đất nước chỉ đến 1344 mét, môi trường tự nhiên còn lâu mới trở nên đa dạng hóa.
Dù nói vậy.
Theo cách nhìn của riêng tôi, đất nước này rộng bao la, và tràn đầy các loại sinh vật sống.
Qua hết những bãi dương xỉ dưới chân núi, tầng tầng lớp lớp các cây tần bì và cây sồi bao quanh con đường thông lên hông đồi. Dù bản thân con đường trông có vẻ ngoằn ngoèo, nhưng điều còn hơn thế nữa là cuộc hành trình đến đây. Mất hết 14 tiếng đi xe lửa, bao gồm nhiều lần chuyển ga, mới vào đến địa phương. Rồi sau khi nghỉ đêm tại nhà trọ trong vùng, cuộc hành trình tiếp tục với 3 tiếng trên xe buýt, và thêm 5 tiếng đi bộ nữa. Tóm lại, chúng tôi hiện đang ở giữa chốn hoang vu.
Gió tháng Chín mát mẻ, và mang theo rất nhiều mùi hương. Mùi đất ẩm ướt, cuộn hết lên theo mỗi bước chân. Mùi thảo mộc dìu dịu, đa phần là đỗ quyên dại. Mùi mốc của nhựa cây sền sệt, các con côn trùng lởn vởn, gỗ mục và phân của các loài thú. Tất cả những mùi ấy đều rất đỗi thân quen đối với tôi.
Sự sống có rất nhiều, nên không thể xem là bẩn. Tương tự như thế, cái chết có rất nhiều, nên không thể xem là đẹp. Hai ý niệm này hình như lúc nào cũng đi đôi với nhau.
Những ý nghĩ về cuộc sống ở Luân Đôn phủ đầy trong tâm trí tôi. Dẫu số người ở đấy gấp vài chục nghìn so với quê nhà của tôi, thì nó vẫn là nơi khiến cho tôi cảm thấy như hầu hết người dân ở nơi đó đều đang phục vụ cho "cái chết". Mặc dù là một thành phố được xây dựng với tâm niệm trong sáng, nó vẫn nhiều lần khiến tôi nổi da gà. Dù nếu hai tháng của tôi ở lại đó kéo dài thành hai mươi năm, tôi vẫn sẽ không bao giờ có thể chấp nhận nơi đó, và chắc chắn nó cũng sẽ chẳng bao giờ có thể chấp nhận tôi.
Thậm chí bây giờ, chỉ nghĩ đến nó thôi cũng sinh ra cảm giác kinh hãi-
"…Đ-Đợi đã…!'
"---!"
Bàn tay đặt trên vai tôi, run rẩy như thây ma, khiến tôi chùn bước. Như thể trúng phải ánh mắt của Medusa[7], tôi cứng nhắc xoay lại chút ít vừa đủ để có thể thấy phía sau.
"S-Sư phụ…!"
Tất nhiên, bàn tay vươn ra ấy là từ cái bộ dạng vô cùng kiệt quệ, nhễ nhại mồ hôi của sư phụ tôi.
"T-Tiểu thư ơi, chúng ta có thể chậm lại một chút không?" Thầy khan giọng nói.
Chẳng biết có phải là may mắn không, thầy ấy dường như không nhận thấy phản ứng của tôi. Dù sao thì, nếu có đủ điềm tĩnh để làm thế, thầy hẳn sẽ không bỏ lỡ điều đó. Dùng mấy ngón tay xoa bộ mặt cứng đơ của mình, tôi trả lời hờ hững.
"Nhưng thưa sư phụ, với tốc độ này, chúng ta sẽ bị trễ thời gian gặp mặt được ghi trên giấy mời."
"…Được rồi, vậy thì ít ra hãy cho ta xin 10 phút. Không, 5 phút thôi. Chỉ cần làm ơn để cho ta ngồi xuống."
Thở nặng nhọc, thầy giơ năm ngón tay.
"…Thầy có ba phút."
Thỏa hiệp xong với thầy, tôi tựa người vào một cây sồi gần đó. Thân thể của tôi hơi nóng nực một chút nên vỏ cây thật mát mẻ dễ chịu. Thật lòng, tôi muốn chọn tảng đá thay vì cây cối, và thậm chí là mặt đất thay vì tảng đá, nhưng nơi này có vẻ như không muốn chiều lòng tôi. Nếu chợp mắt ở đây, tôi cảm thấy như mọi chuyện trước giờ chỉ như một giấc mơ. Nhưng giả sử khi tôi tỉnh lại và thấy mình trở lại quê hương, thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy một cơn đau nhói ở tay phải của mình.
"I hi hi hi hi hi hi hi! Chỉ vì trở thành một pháp sư mà mi nghĩ có thể chấp nhận để cho thân thể của mình yếu nhược vậy sao?"
Lại nữa, không phải sư phụ tôi hay tôi nói, mà là tiếng nói thứ ba không thấy chân tướng. Nói chính xác hơn thì tiếng nói phát ra từ tay phải của tôi, nhưng dù vậy, sư phụ chỉ nhìn xuống đất và phàn nàn bằng giọng mệt lử rằng "Ta lớn lên ở thành phố mà".
Tiếng nói thứ ba này không bao giờ nói về điều gì khác ngoài những lời xúc phạm và lăng nhục. Kể từ khi tôi có nhận thức về những gì xung quanh mình, giọng nói thứ ba này luôn luôn ở bên tôi, nhưng tôi chưa lần nào thấy nó có gì cải thiện. Nói vậy chứ hơn vài chục năm qua, nó chỉ có cơ hội nói chuyện với khoảng năm người, bao gồm cả tôi.
…Có phải mình cũng chẳng thay đổi gì mấy?
Tôi suy ngẫm vẩn vơ về bản thân.
Kể từ hai tháng trước, số người mà tôi thật sự trò chuyện có đầu có đuôi thậm chí không tăng được gấp đôi. Môi trường sống của tôi đã thay đổi đến chóng mặt, nhưng tôi vẫn không thay đổi gì cả. Cảm giác như thể chẳng qua là tôi đang bị bỏ lại phía sau. So với kiểu thờ ơ của tôi hiện nay, chắc chắn ngay đến quyết tâm mà tôi đã ấp ủ về việc rời quê hương còn khá hơn. Kiểu như riêng mình tôi vẫn đang trôi dạt vô định như một con sứa biển.
Sư phụ tôi, vừa chửi rủa vừa xoa nắn bàn chân của thầy, và thứ nằm bên tay phải của tôi đây, cho dù ít ra là không gì ngoài chính tình trạng hiện tại của tôi, đều rõ ràng là chỉ ra cho tôi. Vậy tạo sao tôi vẫn còn rất vụng về?
"…Tại sao mình vẫn là một đứa ngốc?"
Giống như một lời trách móc, tôi thì thầm câu đó.
Sau đó, sau rất nhiều lời phàn nàn và yêu cầu tạm nghỉ của sư phụ, chúng tôi đến được nơi mà khu rừng mở ra một vùng quang đãng.
"Ê ê, cái gì kia nhỉ?" Tiếng nói bên tay phải tôi kêu lên kinh ngạc. Tôi cũng nhíu mày.
Đó là một tảng đá.
Một tảng đã lớn đến nỗi phải cần đến ba người trưởng thành cùng chung tay mới nâng được nó. Trên tảng đá là một người đang nằm. Mặt trên tảng đá, với bề mặt làm liên tưởng đến mai rùa, ông ta khéo léo lắc lư như đang ngủ gục trong khi vẫn giữ được thăng bằng.
Ngay cả những lúc trông như sắp ngã nhưng hóa ra ông ta lại không ngã. Giống như đồ chơi con chim uống nước[8] mà tôi thường ngắm hồi còn nhỏ, những lúc trông như dừng lại, nhưng hóa ra nó lại tiếp tục chuyển động. Trên bề mặt xanh rêu của tảng đá, thân hình vạm vỡ của ông tiếp tục lắc lư tới lui, và chỉ đến khi trông như một cái đẩy nhẹ nhất cũng sẽ làm ông ngã oạch xuống đất, thì đôi mắt ông bật mở và nhìn thẳng vào chúng tôi.
"À, các bạn cuối cùng cũng đến!"
Thản nhiên xoay người sang tư thế khoanh chân, ông ngồi dậy và vẫy tay.
Đôi tay dơ hầy của ông dày cộm và chắc nịch. Mặt ông nhìn như thể chưa được cạo râu, hoặc chưa được để ý đến, trong nhiều tháng. Bụi bẩn bám dính trên da ông đến độ không thể nhận biết được màu da thật của ông.
Quần áo của ông mang lại cảm tưởng như trang phục của dân du cư, nhưng ngay cả chúng cũng không thể che đậy sự vạm vỡ của ông. Tay, chân và thậm chí cổ của ông căng dày đến kinh ngạc, chứng tỏ chúng đã được trui rèn trong điều kiện khắc nghiệt. Ông có thể chỉ cao hơn một chút so với sư phụ tôi, nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu cân nặng của ông gần gấp đôi.
"Ờ thì, hai người trông như một đôi kỳ lạ. Ờ thì, riêng anh trông cũng khá là kỳ lạ rồi, nhưng vị tiểu thư đây thì hoàn toàn khác. Khoan, ở đây không phải đang diễn ra vụ bắt cóc chứ hả?"
Điệu cười to của ông ta làm lộ hàm răng trắng đến kinh ngạc. Đôi mắt đen của ông cũng khá đẹp. Nhưng, có một vẻ nguy hiểm không thể lầm lẫn trong chúng. Đôi mắt ấy trông như vẻ ngây thơ của trẻ con trộn lẫn với vẻ gian xảo của người lớn.
"…Ừ-Ừm."
"…Ông là ai vậy?"
Phía bên tôi, sư phụ tôi nặng nhọc nói. Giọng thầy chứa đựng sự mệt mỏi khiến cho nói năng cũng là một vấn đề.
"Flue." Ông ta đáp. "Đó là tên của tôi."
"…Đó là một cái tên khá dễ thương, đối với một người có bộ dạng như ông."
"Ừ thì, tên đầy đủ của tôi là Flueger, nhưng tôi không thích cái tên ấy lắm. Nếu rút lại là Flue, cái tên này dễ chịu hơn nhiều, như một cơn gió thoảng vậy." Ông nói với một vẻ thâm trầm.
Thay vì một cơn gió thoảng, tôi nghĩ mặt trời sa mạc khắc nghiệt, hoặc một chùm đèn rực rỡ như trên sàn đấu vật thì hợp với ông ta hơn, nhưng ông quả thật có vẻ hoạt bát một cách kỳ bí. Nhưng sư phụ tôi lại có vẻ tức giận. Thậm chí tôi cũng ánh lên sự kinh ngạc trước ông ta. Trong những chuyện xảy ra trước đây, chúng tôi hiếm khi nào gặp phải một người như ông.
-Hi hi, nếu sư phụ cô là một con cáo gầy trơ xương, thì chắc gã này là con lạc đà mơ ngủ đấy nhỉ.
Một lần nữa, tiếng nói đến từ bên tay phải của tôi. Lần này, nó thì thầm đủ nhỏ để chỉ mình tôi nghe được.
"Hửmmm?"
Người đàn ông - Flue, chợt nhìn sang phía tôi. Không thể nghĩ được là ông thật sự nghe thấy tiếng nói đó. Dù thế, ánh mắt vui vẻ mà không xăm soi nhìn tôi từ trên xuống dưới. Ánh mắt bất lịch sự nhưng không quá thô thiển hình như nhìn thấu tôi. Với thái độ sửng sốt, ông giơ ra một ngón tay.
"Tại sao cô lại đội mũ trùm xám? Cô là một cô gái hết sức xinh đẹp, và không có vẻ gì là cô đang che dấu vết sẹo hay gì đó…"
"Đó là… vì…"
"Tôi rất biết ơn nếu anh để cho đệ tử của tôi được yên thân, cảm ơn rất nhiều."
Trong khi tôi đắn đo tìm lời đáp, sư phụ tôi buộc lòng phải đứng chắn giữa hai bên.
"À, vậy ra hai người là thầy trò! Tôi đã nghĩ anh có bộ mặt của một thầy giáo nhưng tôi không dám chắc…"
"Mặt tôi làm sao?"
"Có vẻ bồn chồn bực dọc, nhưng mà xem ra anh là người quan tâm đến người khác nhỉ? Các quản gia trong mấy bộ phim đen trắng thời xưa cũng hay có bộ mặt giống vậy đấy."
Với vẻ mặt nhận lỗi, Flue gãi đầu.
"Với một pháp sư thì anh hơi bị đàng hoàng đáng kính quá đấy nhỉ?"
Tất nhiên, không có chuyện tôi hay sư phụ tôi lầm tưởng cuộc gặp gỡ với ông ta ở tận chốn hoang vu này là một sự trùng hợp đơn thuần. Sau khi hít một hơi nữa, sư phụ tôi lại nói.
"Ông cũng nhận được thư mời phải không?"
"Ồ, yes!"
Flue nhảy xuống từ tảng đá mà ông ta ngồi nãy giờ. Thò tay vào trong áo thụng, ông lấy ra một lá thư, trái ngược với vẻ ngoài của ông, nó mang nét cổ xưa. Lá thư được làm từ một loại giấy cao cấp có in một hình vẽ chìm. Chúng tôi không cần nhìn cũng biết biểu tượng đóng trên sáp niêm phong và hình vẽ chìm mô tả một chiếc lông Thiên Sứ. Đương nhiên là chúng tôi cũng mang theo lá thư giống y hệt.
"Rút cuộc thì tại sao ông lại đánh một giấc ở nơi như thế này?"
"Ờ thì, tôi thấy hơi cô đơn khi đi bộ một mình." Ông ta nói một điều kỳ cục. Vung vẩy phong thư trong không khí, ông cười niềm nở. "Tôi đoán, nếu mà tôi nhận được một lời mời như thế thì chắc chắn người khác cũng sẽ đến. Và nhìn xem, đoán trúng rồi!"
"Ông có suy xét đến khả năng rằng mình có thể là người đến cuối cùng hay chưa?"
"Tôi đành chấp nhận nếu điều ấy xảy ra. Tôi đã suýt muốn khóc rồi, nhưng tôi khá nhanh đấy nhá! Tôi sẽ không đến trễ đâu."
Ông ta gập hai cánh tay thành tư thế gì trông như một kiểu cáo lỗi dở tệ. Không hiểu sao nó khiến tôi liên tưởng đến một con sư tử đang vẫy đuôi nồng nhiệt. Nó có vẻ hợp với bộ mặt bám đầy bụi bẩn và mồ hôi, cùng với ấn tượng khôi hài của ông.
Có thể nói đó là tính tốt của riêng ông.
"…Ờ.. vậy, ông có muốn đi cùng với chúng tôi không?"
Tôi đột ngột hỏi, nhận lại là cái nhìn khiển trách từ sư phụ tôi. Thật lòng tôi không biết tại sao mình lại nói thế. Không phải tôi hay sư phụ muốn có thêm người đồng hành nào khác hơn mức cần thiết, quả thật tôi có thể cảm thấy chính gương mặt của mình đang nóng lên vì ngượng chỉ với việc đưa ra lời mời ấy.
"Thật hả?!"
Với đôi mắt lấp lánh, ông ta cười vui sướng. Nụ cười của ông hào hứng như loại rượu ngon trong quán.
"Được rồi! Cô không cần phải hỏi lần thứ hai! Nhưng thật sự, tôi rất vui khi được mời. Đi một mình quá là chán."
"..."
Bất chấp vẻ chua chát lộ ra trên mặt, ông chìa tay ra với sư phụ tôi.
"Tên là Flue! Một lần nữa, rất vinh hạnh!"
"…Lord El-Melloi II. Đây là đệ tử của tôi, Gray."
Dù không nhận cái bắt tay, thầy miễn cưỡng xưng tên, ít ra để thay cho lời chào hỏi, lập tức nhận được một cái huýt sao ấn tượng từ Flue.
"El-Melloi. Ra thế, ra thế. Anh là người được nói đến trong các tin đồn ở Tháp Đồng Hồ! Vị Lord đã nhảy từ khoa Khoáng Vật sang Ma Thuật Hiện Đại đấy phải không?"
"Ừ, đúng vậy." Lần này, thầy cẩn trọng tránh trao đổi ánh mắt sau khi nói.
"Ồ, phải. Liệu anh có tình cờ mang theo chai rượu nào không nhỉ? Tôi đang khát."
"Tôi không có thói quen mang theo rượu bên mình. Và ông cũng chẳng nhận được điếu xì-gà nào của tôi đâu."
"B-lè."
Trước lời từ chối cộc lốc như thế, Flue bắt đầu tặc lưỡi liên tục, như thể muốn khóc.
"Đi thôi Gray! Nếu em chậm chân, chúng ta sẽ bỏ em lại phía sau!"
Sau khi phủi hạt cát nào đó và chỉnh trang lại áo khoác, sư phụ tôi tiếp tục hành trình lên dốc của thầy. Tất nhiên, 30 phút sau, người chậm nhất và rên rỉ suốt, y chang như mọi người đã đoán, là sư phụ tôi.
-Một hồi lâu sau, Lâu Đài Biệt Cư hiện ra trong tầm mắt.
Không, tôi không chắc nó có thật sự đáng được gọi là một lâu đài hay không. Mặt hồ tĩnh lặng trải rộng phía sau nó, và chiếc cầu treo gồ ghề trước mặt chúng tôi đúng là đem lại phong thái đó. Xen lẫn giữa rừng, hồ, và các bức tường đá cẩm thạch thể hiện một vẻ đẹp uy nghi khó có thể tìm thấy thậm chí trong các câu truyện cổ tích. Nếu so sánh với nhiều lâu đài nổi tiếng ở Anh Quốc thì nó không thua kém về điểm nào.
Nhưng mà.
Mái chóp dốc khổng lồ tạo nên ấn tượng về cột trụ xoắn ghê người. Rất nhiều khối đá cẩm thạch chồng lên sao cho có vẻ là được tính toán hoàn hảo để khiến người ta cảm thấy không thoải mái. Tất nhiên là chúng đã được xây dựng như thế, nhưng lại đem đến ấn tượng xa lạ rằng chúng tồn tại với hình dáng như vậy từ lúc đầu, và chúng chỉ vừa mới chui lên từ nơi ẩn náu sâu dưới lòng núi. Nơi này đem đến một loại ảo giác khó tin.
- Cánh cổng lâu đài tróc lở, như một lồng ngực bị thủng.
- Các bức tường thành uốn lượn, như những cánh tay ôm lấy mặt đất.
- Khu nhà chính nằm ở một bên của lâu đài, bây giờ vẫn khiến tôi liên tưởng đến một quả tim đang đập.
Như thể một người khổng lồ bị lột da thịt, và bị lộn từ trong ra ngoài. Đó là ấn tượng mà nó để lại sâu trong tâm trí của người quan sát.
"....A..."
Thân thể tôi bỗng nhiên bắt đầu run rẩy.
So với các bức ảnh mà tôi đã thấy trước đó, nó trông dễ sợ hơn nhiều - hùng vĩ hơn nhiều.
Lâu Đài Biệt Cư, Adra.
"…Vậy ra những đứa con của Thiên Sứ là người khổng lồ ư?" Sư phụ tôi lẩm bẩm trong sững sờ.
"Những đứa con… của Thiên Sứ?"
"Là dị bản của Kinh Thánh. Theo như ghi chép trong Sách Enoch quyển một, thì những đứa con của Thiên Sứ và con người có tầm vóc tối đa là 3,000 cubit. Ứng với đơn vị tính hiện đại là hơn 1,300 mét. Kích cỡ của tòa lâu đài này hẳn là dễ dàng vượt qua nó."
"Hêê, sao anh nói ra được lưu loát vậy."
Quay sang Flue, biểu cảm của sư phụ tôi vẫn cứ càng lúc càng xấu đi.
"Nếu cũng là một pháp sư, hẳn ông phải biết chừng đấy chứ."
"Biết một cách nhất thời và nêu nó ra ngay khi có việc liên quan là hai chuyện khác nhau. Với lại, trong trường hợp này thì chẳng phải anh đã kể ra những kiến thức chỉ dựa trên vẻ ngoài đơn thuần của nó sao?"
"..."
"Đã mất công nghĩ đến người tạo ra lâu đài này, chúng ta nên nói về điều đó luôn đi nhỉ?"
"Khỏi phải nói, vậy còn ông thì thế nào nhỉ?"
Sư phụ tôi quắc mắt với Flue khi hỏi.
"Người tạo ra Lâu Đài Biệt Cư Adra này, pháp sư của nhà Ashborn là người như thế nào… Chắc hẳn ông không đến đây mà không biết điều đó chứ?"
"Oa chà chà chà. Tôi mua dây buộc mình rồi à?"
Đáp trả lại câu trả lời bông đùa của Flue, sư phụ tôi dồn ông thêm nữa.
"Tôi vẫn chưa được nghe thân phận của ông đấy nhỉ."
Nhún vai như thể chấp nhận thực tế rằng lần này không có cách nào lảng tránh đề tài, Flue xốc tay áo lên.
"Tôi là lính đánh thuê. Chủ yếu hoạt động ở khu vực Trung Cận Đông, đâm đầu vào những rắc rối có liên quan đến ma thuật. Thi thoảng cũng có kết giao với cả Tháp Đồng Hồ nữa."
"Vậy, ông là Thuật Sĩ hả?"
"Ha ha, rất xin lỗi." Flue gãi đầu nhận lỗi.
Tôi cũng đã nghe nói về họ.
Một pháp sư là người theo đuổi "chân lý ma thuật" - có khi còn được gọi là Vòng Xoáy Căn Nguyên - với tất cả những gì mình có, hết thế hệ này đến thế hệ khác, đầu tư mọi thứ và mọi khả năng cho đích đến cuối cùng ấy. Năng lực mà họ có được từ kết quả của việc theo đuổi ấy chỉ là phụ, và không gì hơn là một phương tiện để đạt được Chân Lý.
Ngược lại, cũng có những người không hứng thú gì với Chân Lý, và coi ma thuật chỉ như công cụ tiện lợi để khai thác. Những người này được gọi là Thuật Sĩ. Pháp sư thông thường căm ghét hạng người này như loài rắn độc. Hoặc ít nhất thì đó là những gì tôi nghe nói ở Tháp Đồng Hồ.
"Vậy, phỏng chừng là anh thấy phiền lòng khi bị cho rằng là đi chung với tôi. Liệu chúng ta có nên đường ai người nấy đi chăng?"
Bằng vẻ buồn rầu, Flue chỉ một ngón tay vào chiếc cầu treo dẫn đến lâu đài.
Vài giây sau.
"…Đến lúc này mà ông còn hỏi thế à?"
Sau khi bật ra câu đó, sư phụ tôi bước lên cầu treo. Dành cho tôi một nụ cười gượng, Flue cũng bước theo tôi.
Qua cổng lâu đài mở sẵn thì dễ, nhưng còn có một tiền viên rộng lớn. Được xây theo kiểu dáng vườn cây của Anh - hoặc có lẽ chính xác hơn là, như thể người chủ ít quan tâm đến nó, khung cảnh thiên nhiên đem lại ấn tượng mạnh mẽ rằng nó được xây dựng tối giản nhất. Dù vậy, như thể có gì đó khiến sư phụ tôi hứng thú, thầy đưa mắt nhìn hai ba lần vào bụi hoa hồng phía sau cổng lâu đài.
Mùi hoa hồng nồng đượm. Nhưng tôi không biết nhiều về hoa nên không rõ chúng có thật sự là hoa hồng hay không. Chỉ là có một mùi nồng và lan tỏa trong không khí.
Đứng canh giữ lối vào là một người đàn ông trong bộ quần áo chẽn. Ông ta có phần giống với một quản gia.
"Chúng tôi đang đợi các ngài đây. Lord El-Melloi II-sama, cùng với Flueger-sama." Cúi chào lịch sự, ông ta mở cửa.
Tiền sảnh bên trong rộng đến kinh ngạc. Và…
"…Aaa"
Tôi vô ý nuốt ực.
Đây là một nơi toàn Thiên Sứ.
Các tượng Thiên Sứ xếp thành nhiều hàng. Chúng có nhiều hình dáng và làm từ các vật liệu khác nhau, một số bằng gỗ, một số bằng sắt, một số thậm chí làm từ thứ gì đó có vẻ giống pha lê. Thêm nữa, các bức họa bằng kính màu miêu tả Thần Ái Tình [Cupid] cầm cung, các bức họa Tổng Lãnh Thiên Sứ [Archangel] dũng mãnh cầm gươm, và các bích họa mô tả các Quản Thần [Dominion] với quyền năng vĩ đại điểm tô cho không gian đa dạng. Ngay cả chùm đèn treo trên trần cũng được tạo hình theo chủ đề cánh thiên thần và vầng hào quang.
Và không chỉ có những Thiên Sứ nổi tiếng.
Các Thiên Sứ giống như loại mà sư phụ tôi đã cho tôi xem - tôi đã tìm hiểu về chúng trước khi rời Luân Đôn - khác xa so với hình ảnh thường miêu tả Thiên Sứ như những sinh thể thần thánh, thậm chí một số có hình dáng hao hao giống quái vật cũng được trưng bày. Các Minh Thần [Cherubim] bốn mặt bốn cánh kỳ dị, và các con rắn sáu cánh được gọi là Luyến Thần [Seraphim].
Với hình thù và kiểu dáng đa dạng, số lượng thiên sứ đặt quanh đây có khi phải đến vài trăm.
…
Khi ngắm nhìn, một cảm giác nhức nhối kinh khủng dâng lên trong tôi.
Không thể nào mà những thứ như thế này lại được xem như một bộ sưu tập đơn thuần. Không, nếu nó chỉ là một bộ sưu tập nghệ thuật thì không có lý giải nào cho áp lực bí ẩn mà nó tạo ra, xét đến niên đại và độ bền của nó. Như thể ai đó say mê quá mức với niềm đam mê của mình, và chúng tôi vừa bước vào trong phòng sưu tầm cá nhân của người đó. Hoặc có lẽ là bước thẳng vào bên trong trí óc của người đó.
Nếu vậy, điều đó làm cho nơi này-
-giống như não bộ vậy.
Áp lực của căn phòng có vẻ nặng và dính. Tôi vô tình vấp ngã, chống cả hai tay lên sàn đá. Tôi bắt đầu thấy vô cùng khó thở. Sự rúng động mà tôi cảm thấy khi lần đầu thấy tòa lâu đài trở nên càng lúc càng tệ hơn. Tôi cảm thấy như thể mình đang chìm trong đầm lầy. Và trong đầm lầy ấy có rất nhiều con mắt nổi lềnh bềnh, theo dõi chúng tôi chìm xuống. Không thể tránh được sự quan sát ấy. Với cái cảm giác như vĩnh hằng, tôi không cảm thấy gì ngoài cảm giác rơi vào trong bộ óc của Thiên Sứ.
"Đó là một ảo giác."
Tôi nghe thấy một tiếng nói. Tôi thậm chí không thể biết được nó phát ra từ đâu.
"Tiểu thư à, đây không phải ma thuật. 'Màu' của nơi này chỉ hiện diện với khả năng cảm nhận tự nhiên của em. Em chỉ đang gục ngã bởi chính khả năng của mình. Dù nó là gì thì chỉ cần tạo một định hướng mới cho nó. Em đã học nguyên tắc cơ bản của Mặc Tưởng rồi đúng không?"
Mặc Tưởng? Tôi không biết gì về điều đó. Về vấn đề đó, tôi còn không biết mình đang ở đâu nữa.
…Nhưng mà. Một mùi đặc trưng xông vào mũi tôi.
Mùi này như đang len lỏi sau đầu tôi - và khi tôi ngửi mùi hương quen thuộc ấy, sàn đá dưới chân tôi trở lại. Chỉ còn có áp lực dính, nên tất nhiên là không có những con mắt trôi nổi. Tôi có thể nghe thấy chính hơi thở nặng nhọc của mình, và cảm thấy mồ hôi khó chịu trên da mình.
Nhìn xuống tôi, sư phụ tôi rõ ràng là đang bắt đầu hút xì-gà.
"Em đã thấy điều gì?"
"…A, ừm… một đầm lầy chứa đầy não bộ, và những con mắt nhìn em…"
"Ra thế. Luyện tập Mặc Tưởng lẽ ra nên nằm trong những việc đầu tiên mà chúng ta cần chuẩn bị, nhưng ta thấy là mình sẽ phải thêm nó vào bài tập về nhà của em khi chúng ta trở về."
"Ự…"
Bực thật, nhưng tôi không thể cãi lại.
Nhả ra khói thuốc xì-gà, sư phụ tôi dời ánh mắt sang trung tâm của tiền sảnh.
"Tất nhiên, những người khác tập trung tại đây đều không rơi vào cái triệu chứng 'tăng thông khí' này đâu nhỉ?"
Bên cạnh tôi, Flue cũng nhìn vào trong sảnh. Lập tức, ông ta nhìn tránh đi chỗ khác. Dõi theo ánh mắt của sư phụ tôi, gần bên cầu thang xoắn trong tiền sảnh, chỉ có một người đang tiếp cận chúng tôi.
"Uầy!"
Cùng lúc mà Flue nhanh chóng thoái lui đằng sau cây cột gần đó để trốn, người kia tiến đến chào sư phụ tôi.
Mái tóc vàng và đôi mắt xanh dương.
Dựa theo vẻ bề ngoài, anh ta có vẻ là một chàng trai nổi bật. Anh chỉ trông khoảng đôi mươi, nhưng lại mang một vẻ tự tin và dày dạn không hợp với độ tuổi của mình. Từ bộ đồ trắng không tỳ vết đến cà-vạt đính những viên đá quý, đến cử chỉ bình tĩnh thư thái, nét nam tính của anh dường như thuộc một đẳng cấp khác.
"Đã lâu không gặp ngài, Lord El-Melloi-sama."
"Hãy kèm 'Đệ Nhị' vào. Nếu cứ để nguyên thì đó là một cái tên này quá nặng gánh đối với tôi."
"Ngài quá khiêm tốn rồi. Tôi đã nghe nói về các hoạt động của ngài trong Tháp Đồng Hồ rồi."
Không chỉ đơn thuần là anh ta đang lịch sự, giọng nói của anh đem đến một sự chân thành dễ chịu đối với người nghe. Giọng nói đó như biểu thị sự từng trải của anh. Chắc chắn anh đã từng đối mặt với đủ mọi chướng ngại trong đời đều với sự thẳng thắng này.
"Anh quá lời rồi. Với danh tiếng của anh tại Tháp Đồng Hồ, Hiệp Sĩ Heine Istari lừng lẫy hơn nhiều so với tôi."
"Nhưng tôi có được nhận cái danh hiệu đó từ Nữ Hoàng điện hạ đâu chứ."[9]
Lời đùa của sư phụ tôi được đáp trả một cách mạnh mẽ và nhanh chóng.
Khi tương đối lấy lại được bình tĩnh thì tôi cũng đã lùi ra hơi xa một chút khỏi hai người họ, tôi quay sang chỗ Flue nấp.
"…Anh ta nổi tiếng ư?"
"Hê, sao cô lại không biết chứ? Cô là môn đệ của El-Melloi cơ mà."
"…Tôi chỉ quen biết thầy và gia nhập Tháp Đồng Hồ mới gần đây thôi."
Trước lời thú nhận thật thà của tôi, Flue buông một tiếng thở dài.
Ông đang phải lo ẩn nấp nên không việc gì phải trả lời tôi, nhưng cách mà ông thật thà đáp lại câu hỏi của tôi khiến tôi nghĩ ông là một người tốt theo nét riêng của mình.
"Istari là gia tộc có tiếng tăm về giả kim thuật, nhưng riêng Heine lại là một trường hợp thú vị. Từng có một thời gian, anh ta đã quay lưng lại với cuộc đời pháp sư và trở thành tu sĩ của Giáo Hội."
"Giáo Hội?"
Trong trường hợp này, từ "Giáo Hội" không mang ý nghĩa "phổ biến" như một tôn giáo lớn. Sự tồn tại ở mặt sau của nó, một tập đoàn có mục đích chủ yếu là "bài trừ dị giáo". Nó là một trong số rất ít các tổ chức vượt trên Tháp Đồng Hồ về quy mô. Lập trường của họ đối với việc sử dụng các phép Thần Bí thì có nhiều khác biệt so với Tháp Đồng Hồ, nên hai tổ chức này thường xung khắc lẫn nhau. Đối với pháp sư, nó là thứ mà họ không ưa ngay cả khi bàn đến.
Về phần tôi, Giáo Hội là tổ chức mà tôi quen biết nhiều hơn so với Tháp Đồng Hồ.
"Ừ, vậy thì, tại sao anh ta quay trở lại làm pháp sư?"
"Vì không muốn tài năng của anh ta bị lãng phí, nên gia tộc của anh ta kéo anh ta quay lại."
Thấy được gương mặt sáng lên của tôi, Flue hơi cong môi một chút.
"Bởi thế mà mối quan hệ giữa Giáo Hội và Tháp Đồng Hồ lại càng thêm phức tạp, và từng có lúc mà mọi chuyện thật sự trở nên nguy kịch. Nhưng tôi cho rằng điều đó chỉ nói lên rằng anh ta giá trị như thế nào. Nhà Istari chắc là phải tự hào lắm."
Chắc chắn như thế có nghĩa là người đấu tranh để rút ra khỏi Giáo Hội chính là Heine Istari.
Nhằm mục đích bảo vệ nguyện vọng của Chúa, năng lực chiến đấu của Giáo Hội được rèn luyện đến cấp độ vượt trên những hiểu biết thông thường. Nếu anh ta đã sử dụng chính ma thuật của mình để đánh bại các sát thủ bậc thầy của Giáo Hội thì chẳng có gì ngạc nhiên khi anh cũng nổi tiếng ở Tháp Đồng Hồ. Riêng chuyện này thôi, anh tỏ ra là một người bất phàm - không chỉ như kỳ tích của thiên tài, mà là như một ấn tượng gần giống với đại họa.
…Nhưng, điều đó…
Tôi còn nghĩ về một điều khác.
Thật ra những sát thủ mà anh ta tự tay đánh bại vốn là chiến hữu trước đây của anh – Dư vị gì nằm lại trong lòng Heine Istari?
Khi tôi ngẫm nghĩ đến đó-
"…Onii-sama."
Một cô bé, mặc bộ áo đầm trắng, thò đầu ra từ phía sau cầu thang xoắn nơi em đang nấp. Với một thái độ rụt rè khiến tôi liên tưởng đến một con chim nhỏ, em chắc khoảng 8 tuổi. Chàng trai này dành cho em ấy một nụ cười dịu dàng.
"Không sao đâu, Rosalind. Lord El-Melloi II là người tốt."
"…V-Vâng ạ."
Sau khi chạy sang chỗ người anh, cô bé cúi đầu một chút.
"Em là em gái của anh ấy, Rosalind Istari. Hân hạnh được gặp ngài."
Với sự e thẹn đến giờ trông như có thể ngất bất cứ lúc nào, cô bé chào thầy.
Thấy em bắt đầu ho và lập tức đoán là do khói thuốc, sư phụ tôi vội vàng bỏ điếu xì-gà khỏi miệng và cất lại vào trong hộp, rồi nhận được cái gật đầu cáo lỗi của Heine.
"Vậy, kia là-"
Ngẩng đầu lên, anh ta nhìn về phía tôi, dường như cùng lúc đó, Flue bây giờ cũng lọt vào tầm mắt của anh. Thấy Flue che mặt bằng một tay khi bị phát hiện, sư phụ tôi hỏi Heine.
"Anh có biết Flue không? Chúng tôi gặp anh ta trên đường đến đây, và anh ta quyết định đi chung với chúng tôi."
"…Có chứ."
Anh chàng gật đầu.
Thái độ dễ chịu mà anh giữ đến lúc này nhanh chóng biến mất, giọng anh giờ mang một vẻ tàn độc và bất nhân.
"…Có chứ. Nếu ý anh muốn nói đến gã Chiêm Tinh Thuật Sư Flugger 'Kẻ Diệt Sư Phụ'. Thì có, tôi có biết đôi chút đấy."
Cuộc chạm trán tại tiền sảnh kết thúc chỉ khoảng vài giây.
"Thứ lỗi cho tôi. Đây không phải nơi để bày tỏ cảm xúc cá nhân."
Chàng trai xin lỗi và rút lui.
"-Này! Xem ra quý ngài Hiệp Sĩ không chỉ là đứa to đầu mà dại!"
Tiếng nói bên tay phải tôi vang lên.
Flue cười gượng, vẫy tay xin lỗi.
"Tôi xin lỗi, Rosalind. Tôi không làm cô sợ chứ?"
"K-Không…"
Cô bé gan dạ lắc đầu. Tất nhiên, dễ nhận thấy được sự giả bộ lẫn trong cảm xúc của em, nhưng như để tránh chỉ ra điều này, Heine chỉ vuốt mái tóc của em. Anh có vẻ là một người anh trai tốt. Điều đó có ý nghĩa gì trong thế giới pháp sư thì chưa rõ. Nhưng tôi thật sự cảm thấy rằng hai người họ vì thế mà đã gặp phải không chỉ sự thù địch.
"Nhân tiện, ngài cũng được mời nhỉ." Heine hỏi sư phụ tôi.
"Đúng vậy, một phần là nghĩa vụ xã hội. Tôi giữ một khoảng cách tương đối với các gia tộc có quan hệ khăn khít với người tiền nhiệm của tôi, nhưng chủ nhân của lâu đài này là một trong số ít các ngoại lệ."
"Vậy dù sao cũng là về chuyện đó."
"Phải." Sư phụ tôi gật đầu.
"Một tháng trước, Geryon Ashborn, chủ nhân của Lâu Đài Biệt Cư Adra đã qua đời."
"..."
Tôi cảm thấy một cơn lạnh sống lưng.
Nhớ lại bộ sưu tập Thiên Sứ mà chúng tôi chỉ mới thấy một góc nhỏ, áp lực bám dính khi ấy bắt đầu thấm vào sau đầu của tôi lần nữa. Ý nghĩ về người sưu tập chúng giờ đây đã chết khiến cho nó càng thêm giống với khu vườn của thần Hades, nổi bật với một nét đẹp mà tà ác, cảm giác như nó không thuộc về thế giới thực tại.
"Em ổn chứ?"
"…Vâng." Tôi cố gắng gật đầu. "Em… không biết chuyện đó."
"Ra thế."
Bằng sự lạnh nhạt như thể cụt hứng, sư phụ tôi lấy ra một lá thư từ túi trong của áo jacket. Nó giống hệt lá thư mời mà Flue đã cho chúng tôi thấy lúc trước.
"Nó được gửi đến chỗ chúng tôi một tuần trước."
"Phải, bên tôi cũng vậy." Heine gật đầu.
"Vậy thì nó cũng nói về chuyện thừa kế?"
"Phải." Heine lại gật đầu.
"Tôi nghe nói di chúc chi tiết về việc thừa kế Lâu Đài Biệt Cư đã được công bố. Ashborn không có họ hàng máu mủ, nên tất cả gia tộc có liên quan đến ông ấy đều được mời. Chuyện này có vẻ càng kỳ lạ hơn khi những pháp sư tập trung tại đây quá ít."
"Đó là sở thích của pháp sư cao tuổi chăng?"
Bằng cái nhìn chán nản, sư phụ tôi lắc đầu.
"Ông ấy buộc lòng phải biến ngay chính cái chết của mình thành một cuộc chơi nữa."
"…Ô? Có phải điều đó làm phật lòng Lord mới toanh đây không?"
Tiếng nói lần này đến từ sâu trong sảnh. Bên cạnh cầu thang xoắn mà Heine và Rosalind đứng gần còn có một cầu thang xoắn khác. Tại cầu thang thứ hai này, một người mới tiến đến chỗ chúng tôi.
Âm thanh kim loại cọ vào nhau vang khắp căn phòng. Mất một lúc để nhận ra đó là tiếng ghế xe lăn.
"Ngài Orlocke."
Một sự căng thẳng khác thường xuất hiện trên mặt sư phụ tôi. Một ông già tóc bạc ngồi trên xe lăn. Đằng sau ông là một cậu bé đẩy xe cho ông, nhưng lại tránh chạm phải ánh mắt của những người khác trong phòng.
Với nhiều nếp nhăn hằn sâu, ông tỏ ra ít giống một pháp sư và nhiều ấn tượng giống với một xác ướp. Ít ra về mặt tuổi tác thì ông chắc phải ngoài 80. Mỗi ngón trong mười ngón tay gầy guộc như que gỗ, là một chiếc nhẫn quý hiếm. Vẻ lộng lẫy của mười cái nhẫn khiến cho tuổi tác trên thân thể già nua của ông càng rõ ràng hơn.
Ông trông như một thứ thuộc về Lâu Đài Biệt Cư này. Như thể bất chấp bản thân là một người, ông đã bước một bước vào quá trình trở thành thứ gì đó khác-
"…Ai đây?"
"Orlocke Caesarmund. Ông ta là người đi tiên phong trong lĩnh vực
"Khư khư, khư khư khư, khư khư khư khư khư."
Trước khi tôi có thể hỏi thêm chi tiết, người được nói đến cười rất dài. Nhưng không chỉ là cười, nó nghe giống như ông ta chỉ đang ép không khí ra khỏi phổi. Nó làm liên tưởng đến gió thổi ra từ một cái hang khô.
Papilio Magia, sư phụ tôi gọi như vậy.
Theo như lời thầy, nó là một ma thuật nhằm sử dụng phép Thần Bí phỏng theo quá trình một con sâu bướm biến đổi thành bươm bướm - bằng việc tạo ra một con nhộng, phân giải toàn bộ cơ thể, và tái tạo thành một thứ mới.
Ngược lại với cái tên ma thuật mỹ miều ấy, người sử dụng nó chỉ toát ra sự tà ác. Sự hiện diện của ông như một thứ bùn đen chảy trên sàn đá.
"Lord El-Melloi II," Ông già nói nhỏ. "Lord El-Melloi II, Lord El-Melloi II, Lord El-Melloi II? Dù vậy đi nữa, làm một Lord trong khi bản thân vẫn còn chưa được thăng lên quá cấp Fes, sao ngươi còn dám thò mặt ra trước mọi người hả? Chưa kể lại còn là trong lâu đài của Geryon, người bạn kính mến của ta nữa chứ."
Fes, cấp bậc của sư phụ tôi tại Tháp Đồng Hồ, cấp bậc thứ tư.
Lại cười nữa, ông già bắt đầu gõ lên tấm da trên tay vịn của xe lăn. Dường như đấy là một thói quen của ông, khi mà tay vịn cũ kĩ rõ ràng đã bị phai màu ở chỗ mà ông tỳ vào.
Sư phụ tôi không đáp một lời nào. Từ đầu, thầy đã nhận thức rõ mình kém cỏi thế nào. Dẫu vậy, nói ra điều đó trước mặt nhiều người thì quả thật sẽ tạo ra cảm giác muốn bệnh phía dưới dạ dày của thầy.
Đặt một tay lên ngực, thầy hơi cúi người đáp lại.
"Tôi hoàn toàn nhận thức về sự non kém của mình. Cho dù chỉ nhận cái danh này tạm thời, tôi cũng mong ngài bỏ qua cho, thưa ngài Orlocke."
"…Hừm. Một Lord không nên cúi đầu một cách dễ dãi như thế. Ngươi đang hạ nhục truyền thống về địa vị của mình đó." Nâng mấy ngón tay khỏi tay vịnh, ông ta chỉ ra điều đó với một giọng buồn chán.
Sau đó-
"Tạm thời hãy để cậu ta giới thiệu cái đã."
Bằng ánh mắt, thầy ra dấu phía sau lưng mình.
"-Ồ! Ở đây có người đẹp này!"
Vừa nói vừa nhìn Rosalind và tôi, một chàng trai trẻ mặc bộ đồ kỳ lạ xuất hiện. Anh ta hình như cỡ tuổi Heine, vào khoảng đôi mươi, và có đeo một tấm bịt mắt bên phải. Điều kỳ lạ không phải là tấm bịt mắt của anh. Mà hơn thế là chiếc hộp nhỏ buộc chặt trên đầu anh, loại áo làm từ sợi gai dầu trắng tinh, và con ốc xà cừ đeo trên cổ. Về sau, tôi được bảo rằng đó là trang phục của phái Shugendou, một tôn giáo địa phương ở vùng Viễn Đông.
"Yamabushi, Tokitou Jiroubou Seigen, hân hạnh được phục vụ mọi người!"
Bằng giọng tiếng Anh quá nặng, anh ta tự giới thiệu bản thân.
Bất chấp sự thật rằng trang phục của anh trông rất lạ lẫm đối với quốc gia mà anh hiện đang ở, anh lại có vẻ phù hợp với nơi này. Có lẽ bởi vì nơi này thuộc về giới pháp sư.
"Trang phục đội đầu đó được gọi là Tokin phải không? Nếu tôi nhớ không lầm, nó tương tự như Tefillin [hộp đựng kinh] trong Do Thái Giáo."
"Hê, hiểu biết khá đấy nhỉ? Có lẽ nó phổ biến hơn là ma thuật Châu Âu, nhưng thậm chí ở Nhật Bản, chúng cũng khá ít gặp." Anh suýt xoa ngưỡng mộ. Dù vậy, ánh mắt và tư thế của anh vẫn hướng về Rosalind và tôi.
"Vậy, mọi người có muốn dùng trà không? Quản gia nói họ đã chuẩn bị sẵn loại trà ngon nhất cho chúng ta."
"..."
Khom người và xoa hai tay vào nhau, anh ta đưa ra lời mời, tuy nhiên, Rosalind khẽ bám sau lưng Heine, lại càng dễ làm liên tưởng đến búp bê Pháp.
…Ngay cả tôi, vì nhiều lý do, cũng lướt ra sau lưng sư phụ tôi và dùng thầy làm lá chắn. Vào những lúc như thế này, tôi thấy có chút vui mừng rằng thầy cũng khá cao ráo.
Sư phụ tôi có chút sững sờ.
"Yamabushi là các tu sĩ hiến dâng thân mình cho thần linh, đúng không? Trên hết, phái Shugendou coi phụ nữ là không trong sạch, đúng không?"
"Ha ha. Tín ngưỡng và sở thích của tôi khác nhau, thấy không? Cộng thêm, đó là chuyện khi tôi ở trên núi cao, nhưng ở ngoại quốc, tôi không cần phải gượng ép bản thân. Nên, sao chúng ta không làm quen với nhau một chút nhỉ, các quý cô?"
"…Ừm, thật ra…"
Khi tôi ngần ngại lùi xa hơn nữa-
"Tôi e là chúng tôi buộc phải từ chối. Như anh thấy đó, em gái tôi rất không bằng lòng về anh."
Heine xen vào cuộc nói chuyện. Giọng nói của anh đầy sự cương quyết, như muốn nói rằng anh không cho phép bất cứ ai đụng đến em gái mình.
"Ừm, cẩn thận đấy, ông anh. Nếu anh bao bọc quá kỹ, tiểu thư đây cũng sẽ ghét anh đấy, biết chứ?"
"Xin lỗi nhưng không đời nào có chuyện Rosalind ghét tôi được đâu."
"Òa, rất tự tin đấy nhỉ!"
Nhanh chóng lùi ra, Seigen đưa tay ra sau lưng. Đột nhiên, thứ gì đó lao ra từ tay anh ta. Theo một đường vòng cung đáng kinh ngạc, nó tiếp cận điểm mù của Heine và tấn công vào lưng anh ta. Nó di chuyển không một tiếng động, và lại còn với một sự hung hăng có thể thách thức một con dã thú.
"Oni-sama!"
Trước tiếng kêu của Rosalind, Heine giơ một tay lên.
"-là chiêu thức Shugendou,
Heine nói trong khi vẫn giữ vẻ mặt vô cảm. Ngoài vệt đỏ chảy dọc từ bàn tay, anh còn giữ một chiếc đĩa sắt nhỏ gần bằng bàn tay của mình.
"Ha ha, anh nhanh nhạy thật! Đây là chiêu thức mà Taichō[10] sử dụng rất điêu luyện. Mặc dù không được nổi tiếng như ngài En no Ozuno. Nó là chiêu kỹ mà ông ta sử dụng trong khi 'hành khất'."
Tôi cũng đã nghe nói về "hành khất" của nhà sư này. Đó là một bài thực hành mà các nhà sư thực hiện để nhận bố thí tiền và thức ăn từ các tín đồ khác. Trong trường hợp ấy, nó khiến cho chiếc đĩa thành bùa chú thuộc về Tokitou Jiroubou Seigen. Nghĩa là Hihatsuhou là một sức mạnh siêu nhiên giúp cho anh điều khiển chiếc đĩa một cách tự do.
"Đúng vậy, anh đã cho tôi thấy một thứ hay ho."
Heine gật đầu với Yamabushi, người đang vừa gãi đầu vừa cười.
"Bình tĩnh, bình tĩnh đi. Tôi chỉ giỡn một chút thôi mà."
"Nếu chúng ta chỉ đang giỡn, thì tôi chắc chắn cần phải đáp trả lại anh."
Heine chạm một ngón tay vào viên đá quí trên chiếc cà-vạt.
"
Anh nói thầm trong khi gõ lên sàn nhà bằng một mũi giày của mình.
Tức thì, vô số lưỡi gươm vươn ra từ sàn đá. Không phải các lưỡi gươm xuyên qua sàn nhà, mà chính sàn nhà tự biến hình thành các lưỡi gươm. Như một cơn sóng lướt đi từ vị trí mà chân của Heine gõ lên sàn nhà, một tấm thảm gươm tự điều hướng và thi nhau lao về phía Seigen.
"Oa!"
Seigen nhảy lên. Như thể bỏ qua chính trọng lực, thân thể anh bay cao vài mét trên không trung một cách bất bình thường.
Sư phụ tôi về sau nói lại với tôi rằng đây rõ ràng là một điển hình về chiêu thức Shugendou khá nổi tiếng, một ma thuật được truyền dạy trong môn phái của tôn sư En no Ozuno, được gọi là Ô Nha Thăng hoặc Thiên Cẩu Thăng. Nếu đạt đến tối cường, có thể nói nó rất gần với Ma Pháp Chân Chính, một kỹ năng gần như là dịch chuyển tức thời. Với chiêu thức này, Seigen thoải mái bay và đáp lên chùm đèn treo trần.
"Ư-ha ha ha, thấy sao hả?!"
Yamabushi khoanh tay với vẻ đắc ý, nhưng Heine lẳng lặng chỉ một ngón tay lên ngực anh.
"Nó đây này. Tôi không có chút thành tín nào với Thần của anh, nhưng vì anh đã cho tôi thấy thứ hay ho, nên đây là điều ít ỏi mà tôi có thể làm."
"Hử?"
Nhanh chóng nhìn xuống, những lưỡi gươm đá rung rinh quanh vòng tay khoanh lại của Seigen.
Những lưỡi gươm đã vỡ tan thành từng mảnh. Không, chúng là những cánh hoa. Những lưỡi gươm hóa thành hàng trăm cánh hoa đá, giờ đây đang tô điểm cho tiền sảnh. Cảnh tượng khiến cho mọi người kinh ngạc chỉ tồn tại trong vài giây. Ngay sau đó, nằm trên vòng tay khoanh lại của Seigen là chiếc đĩa mà anh ta vừa phóng ra lúc nãy.
Mặt trên của chiếc đĩa là một bông hoa đá, và một tờ tiền mười £ [Pound].
"Ồ, trông này."
"Ồ?"
Orlocke và Flue cùng nhìn xuống bàn tay của họ. Cả trên tay vịn của ông pháp sư già và đầu ngón tay của Flue đều có những bông hoa hồng bằng đá.
"…A."
Trên áo jacket của sư phụ tôi và áo choàng của tôi cũng vậy, cũng có đính một bông hoa đá.
Thay vì như ma thuật, nó trông giống một mánh ảo thuật tài ba hơn. Bông hoa đá mượt mà, trong veo và mềm mại, nhìn như thể chỉ cần chạm vào là nó sẽ sống lại. Một thứ đối nghịch, vừa trông như đang sống mà vừa không để lại ấn tượng mạnh mẽ.
(…)
Mang dáng vẻ người chết hơn cả người chết.
Mang dáng vẻ người sống hơn cả người sống.
Một quang cảnh mà bản thân tôi đã nhìn thấy nhiều, rất nhiều lần ở quê hương mình. Những thứ bất hợp lý, trái lẽ thường, không sống cũng chẳng chết.
---'Nhà ngươi phải hủy diệt thứ đó. Thứ đó. Thứ đó. Chỉ thứ đó mà thôi.'
Nhớ đến mùi đất và đá từ một nơi khác, một cảm giác chua chát của sự chối bỏ và trở mặt dâng đầy trong miệng tôi. Tôi bị trói buộc bởi sự tê cứng lan đến các đầu ngón tay, và cảm giác như say xẩm ập vào trong tâm trí. Những hồi ức ấy chẳng liên quan gì đến nơi này. Như một câu chú, tôi nhẩm đi nhẩm lại những lời này trong đầu.
"Vậy ra đây là giả kim thuật của nhà Istari?" Sư phụ tôi thì thầm, cầm lấy một trong những bông hoa đá bằng các ngón tay, khi mà tôi bắt đầu hít thở sâu.
"Giả kim thuật… từ Học viện Atlas, phải không ạ?"
Trong giới pháp sư, tôi được nghe bảo rằng khi nói về giả kim thuật tức là nói đến Học viện Atlas. Một trong ba tổ chức pháp sư lớn mạnh ngoài Tháp Đồng Hồ, nó là một tổ chức biệt lập với thế giới bên ngoài, được biết đến như một "địa ngục trần gian". Thật lòng thì tôi không biết rõ điều đó có ý nghĩa gì nhưng-
"Đó là một dòng họ giả kim thuật khác với giả kim thuật của Học viện Atlas. Không như họ, giả kim thuật được đưa vào Tháp Đồng Hồ đã phát triển sau khởi nguồn của giả kim thuật tại phương Tây vào thời Trung Cổ. Biểu tượng 'Đá Sống' của nhà Istari có thể sánh ngang với những vũ khí của các Anh Linh hạng yếu, nhưng nó thật sự được xem là một tài năng đáng kể."
Đôi mắt của sư phụ tôi nheo lại với một góc độ khó thấy được.
Khi nói về tài năng, thầy thường làm thế với một vẻ ngờ vực lộ liễu. Nó chắc chắn là thứ không thể chạm đến. Nhưng như thể thầy đang nói với các vì sao trên trời, sự sốt sắng của thầy thỉnh thoảng lộ ra.
Tiếp theo đó-
"-Òa!"
Seigen lướt gọn ghẽ khỏi đèn chùm.
Bằng một âm thanh khá lớn, anh ta té xuống nền nhà. May mắn thay, những lưỡi gươm đá đã biến mất, nên anh chỉ bị đau hơn một chút so với đòn đánh vật lý.
"…Ao-Auu…"
Xoa lưng cùng với tiếng rên rỉ, anh giơ tay một cách khó nhọc.
"Tôi chịu, tôi chịu! Nếu chúng ta thử tài nhau như thế này, tôi không có cửa thắng." Vẻ mặt bông đùa của anh ta không có chút tức tối nào.
Bằng một nụ cười bình thản, Heine chìa tay ra với anh.
"Rosalind thì không được, nhưng nếu anh đồng ý, tôi rất hân hạnh nhận lời mời dùng trà của anh."
"Tôi không hứng thú gì với đàn ông. Nhưng mà ừ thì, một anh chàng điển trai như anh thì cũng được, tôi nghĩ vậy."
Với một nụ cười, Seigen cũng chìa tay.
Giọng nói của cả hai đều ôn hòa khiến tôi bị bất ngờ. Dường như họ đã hình thành một loại giao hảo từ sau trận đấu ngắn ngủi. Ừ thì, tôi chưa bao giờ đấu với một địch thủ mà mình thấy thú vị từ trước, nên có lẽ nó vốn là chuyện mà tôi không lường trước được.
-Ê! Gray!
Đột nhiên, tiếng nói bên tay phải tôi vang lên. Tiếng nói âm thầm mà chỉ có tôi mới nghe được, nhưng đầy sự khẩn trương.
Tôi quay mặt sang hướng mà chúng tôi đã đi qua, lối vào tiền sảnh.
"Xem ra tôi là người đến sau cùng nhỉ?"
Cùng với một người hầu nam kề cận phía sau là một người mới đến có giọng nói kiêu ngạo.
Bộ áo đầm màu lam sáng của cô làm liên tưởng đến màu xanh của bầu trời. Một chiếc nơ cùng màu buộc trên mái tóc vàng óng của cô, và trong tay cô là một chiếc dù xếp màu ngà. Họa tiết đặc biệt trên chiếc dù không thể thấy rõ từ khoảng cách này, nhưng chỉ nhìn sơ qua cũng nhận thấy rằng chỉ một chiếc dù này cũng có thể đáng giá bằng một hai chiếc xe hơi.
Trên tất cả, dung nhan đó khiến cho người ta chỉ có thể nghĩ rằng tạo hóa đã trút cả linh hồn mình vào việc tạo nên nó.
Seigen phát ra tiếng thở trầm trồ có thể nghe thấy được. Không, lần này thì không chỉ có Seigen. Không kể như Heine và Flue, ngay đến Rosalind và tôi cũng không thể không bị hớp hồn bởi vẻ ngoài ấn tượng của cô gái này.
Cô chắc không quá 17 hoặc 18 tuổi, nhưng vẫn thu hút mọi ánh mắt trong căn phòng.
"…Vậy là ngươi cũng tới. Có phải mùi kho báu sáng chói dẫn dụ ngươi bước vào đây?" Ông già ngồi xe lăn bật nói với giọng khó chịu.
Như tiếp nhận lời phàn nàn của ông-
"Có vấn đề gì sao, lão già?" Cô thách thức với một vẻ hoa mỹ.
Dáng điệu tiến đến của cô trông như thể cô vốn là chủ nhân của nơi này.
Trong cổ họng ông già, một tiếng cười nghe như dung nham sôi sục vọng ra từ địa ngục.
"…Ô hô, vấn đề chính là với dòng máu ti tiện của ngươi đấy, Luviagelita Edelfelt."
"Ông quá khen rồi."
Cô gái trong bộ áo đầm xanh dương, Luviagelita, đáp trả câu nói đó với một nụ cười.
Chương 2[]
-Chúng tôi gặp phải rất nhiều rắc rối.
Chúng tôi chẳng thể làm gì khác, không thấy lối thoát nào. Chúng tôi bị kẹt một cách vô vọng trong rắc rối.
"T-T-T-T-T-Tại sao mấy người lại ở trong phòng tôi?!"
Bởi vì, với đôi má trắng như gốm sứ lúc thường trở nên đỏ lự, không ai ngoài Luviagelita Edelfelt đứng trước mặt chúng tôi.
Để làm mọi chuyện thêm tệ hơn, sư phụ tôi hoàn toàn cứng đơ trong tư thế đứng ngay giữa các cánh cửa bằng đồng nặng nề. Nếu có thể, thầy chắc chắn chỉ mong sao được đóng cánh cửa lại và bỏ đi, nhưng với cánh tay yếu ớt như của thầy, việc đó là không thể. Có lẽ quan trọng hơn nữa, thái độ của đối phương cũng không có vẻ gì là sẽ cho phép thầy rút lui dễ dàng.
Có thể cô ta vừa định đi ngủ, vì cô đã chuyển sang mặc bộ đồ négligée trắng. Tất nhiên là bộ áo làm từ vải lụa thượng hạng, và giá trị của nó chắc chắn làm bỏng mắt, nhưng dù sao thì nó trông cũng dễ thương. Kể cả với phần diềm xếp khiêu gợi, kiểu dáng của nó không thể nào làm xấu đi vóc dáng mảnh mai của cô.
…Còn nữa, có lẽ chỉ là tưởng tượng của tôi nhưng dường như chính vào lúc cánh cửa mở ra, Luvia đã mau chóng dấu đi thứ gì đó trông như thú nhồi bông hình con chó đằng sau cái gối gần nhất.
Nếu tôi nhớ không lầm, nó là một nhân vật trong chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi, nó thích nấu ăn, nhưng khi tình huống đưa đẩy, nó sẽ biến thành một hiệp sĩ trong bộ giáp bóng loáng để bảo vệ công chúa. Quả thật điều này là niềm ao ước của các bé gái. Đó là điều mà tôi đã thấy trên TV ở ký túc xá sau khi đến Luân Đôn. Tất nhiên vào lúc này, tôi chắc chắn không nghĩ rằng mình muốn có một cái cho bản thân. Và tôi vô cùng chắc chắn rằng mình cũng chẳng muốn dành chỗ trong thời gian biểu hàng tuần của mình chỉ để xem nó trên TV.
"Tại sao mấy người lại ở đây?! Nếu viện được cớ gì thì hãy tuôn ra hết đi!"
Sự kiên định của cô trong việc giấu diếm con vật yêu thích của mình đủ để khiến người ta phát khóc… hoặc đúng hơn, nó đủ khiến cho cô ta bật khóc. Nếu cô chỉ đơn giản là để sang một bên thì sư phụ tôi có lẽ sẽ không nhận thấy, nhưng hình như với hành động ấy, cô có thể mất đi điều gì đó thậm chí còn quan trọng hơn.
…Mình nên làm gì đây?
Suy nghĩ của tôi chạy điên cuồng. Đây là lần đầu tiên tôi suy nghĩ điều gì đó dữ vậy kể từ khi đến Luân Đôn. Cô gái trước mặt chúng tôi hiện giờ quá khác so với người mà chúng tôi gặp lúc ở tiền sảnh. Cô hình như biến thành một người hoàn toàn khác.
Thật ra ai mới là người cãi tay đôi với ông pháp sư già trông-như-quái-vật chỉ mới cách đây vài giờ?
"…Không, ờ... làm ơn chờ một chút, tiểu thư."
Xoa trán như thể bị một cơn đau đầu, sư phụ tôi nói.
"Được, tôi sẽ chờ. Để tôi chờ xem nào, Lord El-Melloi II! Thật không ngờ lại có một Lord đi xâm phạm phòng riêng của một quý cô khi chưa được phép! Thanh danh của Tháp Đồng Hồ đã bị ông quẳng xuống đất rồi đó!"
Một lượng ma lực đáng sợ bắt đầu dâng lên xung quanh Luvia.
…Ồ, tệ rồi đây...
Các bản năng của tôi tan biến.
Cho dù đây là một người hoàn toàn khác, nhưng ma thuật đó là thật. Chắc hẳn nó ở đẳng cấp mà sư phụ tôi không thể đỡ nổi. Tôi hiểu sự thật rằng thầy thua kém đến mức không thể xem là cấp độ nửa vời. Nếu thầy chạm trán với một ma thuật cao cấp thật sự, không có gì đảm bảo là thầy thậm chí để lại được tro tàn của mình.
"K-Không phải! Tôi chỉ đến căn phòng có cái 'Tên Thiên Sứ' của mình như đã được chỉ định thôi mà!"
Lấy ra lá thư của mình, thầy tuyệt vọng kêu lên. Phía trước lá thư có chữ "Mihael". Cũng như chính Lâu Đài Biệt Cư, những chữ lờ mờ khó nhận dạng này có vẻ gì đó… không đáng tin.
"…Đúng vậy thật nhỉ."
Luvia xem xét kỹ bức thư mà sư phụ tôi đang cầm.
"Nhưng 'Tên Thiên Sứ' của căn phòng này là 'Michael' đấy chứ?"
"Hả?"
Sư phụ tôi kiểm tra lại tấm biển gần bên cánh cửa một lần nữa. Như Luvia đã nói, chữ "Michael" được ghi trên đó - Đúng thật có chữ "C" trên đó. Tiện thể, người chỉ ra căn phòng này chính là tôi.
"…Quả nhiên là như vậy."
"X-Xin lỗi. Xem ra em… nhầm lẫn."
Em xin lỗi sư phụ. Xem ra số mệnh của thầy đến đây là tận. Nếu có thể được, xin đừng đẩy nó sang em.
"Quả nhiên, ông đã chuẩn bị sẵn sàng rồi đấy nhỉ?"
Áp lực xung quanh cánh tay của cô ta tiếp tục tăng. Kể cả không khí gần bên cũng bắt đầu xoáy tròn quanh nó, lại còn tăng tốc nữa. Khi áp lực đạt đến ngưỡng bùng phát, sư phụ tôi kêu lên.
"C-Chờ đã! Đây là Schemhamphoras đấy!"
"...?"
Ngần ngừ một chút, Luvia gật đầu.
"Tôi hiểu. Tôi không thể khẳng định khi chỉ nhìn tên Thiên Sứ của mình, nhưng dù sao thì nó đúng là như thế. Vậy là ma thuật đằng sau Lâu Đài Biệt Cư sử dụng Kabbalah làm nền tảng của nó."
…Sêm ham pho ray?
Dường như họ đã đi đến một sự đồng thuận nào đó, nhưng tôi hoàn toàn không hiểu được họ đang nói về cái gì.
Kabbalah dĩ nhiên là một trong các dòng ma thuật nổi tiếng. Xuất phát từ Do Thái Giáo, nó không nhất thiết bao hàm việc sử dụng Phép Thần Bí như trong ma thuật, nhưng khi pháp sư nói về nó, họ đa phần là nói về phần mà nó có liên quan đến ma thuật. Tôi cũng có nghe nói rằng các cấp bậc phân chia trong Tháp Đồng Hồ về căn bản là dựa theo nó.
Tuy nhiên, bất kể "sêm ham pho ray" có ý nghĩa gì và làm sao mà điều đó đưa đến kết thúc của cuộc trò chuyện này thì vẫn còn là điều bí ẩn đối với tôi.
"Dù nó không phải là lời xin lỗi, nhưng liệu cô có thể cân nhắc thông tin vừa rồi để tha thứ cho tôi không?"
"..."
Sau khi suy nghĩ một lúc về những gì sư phụ tôi vừa nói, Luvia cất tiếng.
"…Vừa đủ điểm đỗ đấy."
"Không bị đánh trượt là may rồi. Nhưng tôi không nghĩ ở tuổi này rồi mà mình còn được chấm điểm."
Lấy ra một chiếc khăn tay, sư phụ tôi lau mồ hôi lạnh trong khi nói. Có phần kỳ quặc, như thể đang làm một con rối bị giật dây, thầy bước ra khỏi phòng. Sau khi bước một bước, Luvia vươn một ngón tay ra.
- "
Call ."
Tôi thấy một ánh sáng.
Không, tôi chỉ tưởng là mình thấy nó.
Ngay sau đó, bên cạnh ống tay áo của sư phụ tôi, một lỗ đen mở ra giữa không trung. Tác dụng của những lời nguyền tích tụ tương đương với tác dụng của một tia nhiệt.
"Ông hiểu mà, phải không? Nếu một sự xâm phạm như thế này xảy ra lần nữa, thì một lời nguyền y hệt với cái này sẽ thiêu rụi quả tim của ông." Luvia nói với một nụ cười ngọt ngào.
Không nói lời nào, cô ta đóng sầm cửa lại.
Xem ra phần nào lớn hơn nhiều so với sức mạnh tàn bạo, thậm chí cô gái này cũng xuất sắc hơn sư phụ tôi. Tôi đắn đo giữa việc khen ngợi cô hay khuyên nhủ sư phụ tôi.
Dù gì, khi giờ đây chỉ còn hai chúng tôi trong hành lang, sư phụ lờ đờ quay sang tôi.
"Gì vậy, Gray?"
"…Ư, em… chỉ là đang có nhiều suy nghĩ trong đầu lúc này."
"Xung đột giữa các pháp sư với nhau là chuyện như cơm bữa. Em không thể cứ luôn để tâm đến mỗi khi chuyện đó xảy ra được."
Dù cảm thấy như điều vừa mới diễn ra có vẻ hơi khác so với cuộc cãi cọ nhỏ nhặt giữa các pháp sư, nhưng tôi quyết định không nói ra điều đó. Tôi nghĩ thầy cũng chẳng thật sự hiểu chuyện xảy ra khi nãy.
"Quan trọng hơn, hãy viết thêm nó vào ghi chú đi. Vào trong bản đồ tổng quát về Lâu Đài Biệt Cư này, 'Tên Thiên Sứ' của Edelfelt ấy."
"À… vâng ạ."
May cho tôi, dù không được sáng dạ cho lắm nhưng tôi cũng không đến nỗi tệ trong việc nắm bắt địa hình. Sử dụng quyển vở mà sư phụ tôi đưa cho, tôi ghi lại thông tin theo như lời hướng dẫn. Khi tôi bắt đầu loay hoay với việc ghi cho đúng chữ "sêm ham pho ray"-
"-Từ ấy là Schemhamphoras."
Sư phụ tôi nói khi chỉ tay vào chỗ trống mà tôi đang viết dở. Sau đó, đôi mắt thầy hơi nheo lại.
"Hãy nhân cơ hội này để sắp xếp lại thông tin mà chúng ta đã có."
Dù đang nghĩ gì thì thầy vẫn nói câu đó. Lại lần nữa cất tiếng, thầy bắt đầu điểm lại các sự kiện xảy ra vài giờ trước ở tiền sảnh.
-Đi ngược về thời điểm lúc trước.
"…Ô hô, ta đang nói về dòng máu ti tiện của ngươi đấy, Luviagelita Edelfelt."
"Ông quá khen rồi."
Orlocke và Luvia cùng trao đổi một nụ cười.
Trong tình huống này, hai nụ cười ấy tựa như tục quăng bỏ găng tay trong trận song đấu giữa các hiệp sĩ. Không hề lầm lẫn hay sơ sót, hành động này chỉ nhằm thẳng thừng xúc phạm đến danh dự của đối phương.
"..."
Thật lòng thì đầu tôi cảm giác rất giống lốp xịt. Như đã nói lúc trước, trong hai tháng qua, số người mà tôi từng trò chuyện có thể đếm trên đầu ngón tay. Đột ngột rơi vào tình thế mà mỗi cá nhân ở đây đều rất mạnh, đại khái có thể thấy trước là chuyện này làm cho óc của tôi muốn gào lên.
Flue.
Heine Istari.
Orlocke Caesarmund.
Tokitou Jiroubou Seigen.
Tất cả bọn họ đều là những pháp sư có nét đặc trưng khó phai, nhưng cô gái chỉ vừa mới xuất hiện ở đây hình như có vẻ ấn tượng hơn.
"Luviagelita Edelfelt. Đây lại là một nhân vật đặc biệt phi thường tới nữa rồi." Sư phụ tôi nói cùng với một tiếng than thở.
"Thầy biết cô ấy ạ?"
"Đó là một gia tộc lớn về Ma Thuật Bảo Thạch định cư tại Phần Lan. Ta nghe nói vị gia trưởng trước đây đã thoái nhiệm sớm và ở mọi nơi đều để cho cô con gái ra mặt… Là như vậy đây sao?"
"Ô hô, ngay cả Lord non trẻ của chúng ta cũng biết cơ đấy."
Ông pháp sư già ngồi xe lăn nở một nụ cười vui vẻ khi nghe được lời nói của sư phụ tôi.
"Phải rồi. Chúng là lũ linh cẩu thanh nhã nhất trên mặt đất này mà. Dù sao cũng chỉ là những kẻ mới phất lên vào Thời Phục Hưng, và có sở thích can dự một cách không biết xấu hổ vào các tranh chấp trên khắp thế giới chỉ để cố đớp rỉa lấy những bảo vật ma thuật."
Tuy vậy.
Cô gái nói trên chỉ liếc sơ qua các pháp sư có ý đánh giá mình.
Gật đầu với mấy người theo hầu, cô tự mình tiến vào đại sảnh của Lâu Đài Biệt Cư.
"Caesarmund, lão khọm già." Cô thì thầm.
Riêng giọng nói của cô cũng đủ để khiến một nghệ nhân nào đó run rẩy. Không chỉ với vẻ ngoài, cô có đầy đủ tố chất mà người thường phải dày công mới có được. Gọi là một hào quang, hoặc một Thánh Linh. Đấy là những từ ngữ mà các nhà phê bình dùng để nói về nghệ thuật, nhằm ghi nhận tính chất mà ngôn từ không thể lột tả.
Và cô mới chỉ khoảng 17 18 tuổi.
Cô mới chỉ cùng lứa với học sinh trung học, thế thì tại sao lại có được phẩm chất như thế?
"Rất vinh hạnh vì lời đánh giá đó của ông. Nếu tôi có thể nói thế bằng sự tôn trọng đối với dòng họ Edelfelt, chúng tôi là một gia tộc sẽ không bị chặn lại vì bất cứ ai hay bất cứ điều gì trong việc tìm hái trái quả ngon lành. Nếu mạnh bạo thì tôi sẽ dùng từ 'thợ săn' nghe dễ chịu hơn là 'linh cẩu'. Hoặc tốt hơn nữa, nói theo tiếng Pháp là 'le chassseur' hay cũng khá hay."
Lời nói của cô, dù ý chính là kiêu ngạo nhưng không hề gây ảnh hưởng đến nét dịu dàng của cô. Thay vì vậy, cô nói bằng sự vững vàng và nghiêm túc buộc người ta chỉ có thể gật đầu đồng tình. Ngay cả tôi, người không biết gì về cả nhà Edelfelt lẫn các gia tộc pháp sư nổi tiếng trong cộng đồng, cũng cảm thấy sởn da trước những lời đó.
Giống như, một người bình thường dù không thể nhận thấy giá trị chân chính nhưng vẫn có thể cảm thấy quyền lực tượng trưng của một món trang sức quý giá.
"Nhưng mà, ông đã cất công đến tận đây thế này, phải chăng trong Khắc Ấn Ma Thuật của ông có khiếm khuyết nào đó?"
"…Ha. Nói nhảm gì thế hả, đồ cá rỉa xác?"
"Vậy sao?" Cô gái nghiêng đầu sang bên. "Dĩ nhiên, trong lịch sử nhà Ceasarmund thì không có, nhưng chuyện Khắc Ấn quá già cỗi bị mốc meo thì tôi đã nghe rồi đấy. Phải, dù việc nuôi dưỡng dòng máu ma thuật cần phải có một thời gian dài, nhưng nếu vượt quá cả nghìn năm thì có cũng thành vấn đề nhỉ? Rượu có làm tốt đến đâu thì thời hạn tối đa của nó cũng chỉ có thể được gần trăm năm thôi mà, đúng không?"
Đôi môi của cô ta nở một nụ cười khúc khích.
Kể cả trong nhóm pháp sư ở đây, mỗi cá nhân đều phi thường, nhưng Orlorke lại là một con quái vật ở cấp độ hoàn toàn khác. Và bất chấp điều đó, Luvia đương đầu với kẻ có thế lực tại Tháp Đồng Hồ này mà không hề chùn bước.
"Chính vì thế mà ông mới trông cậy vào Phục Nguyên Sư Geryon Ashborn, không phải sao?"
Một tiếng ồn khác lạ vang lên trong tiền sảnh của lâu đài.
Ngay đến Heine, người đã thể hiện ma thuật tài tình lúc nãy, cũng nhướn mày tỏ vẻ lo ngại.
"…Phục Nguyên Sư?"
"Tức là chủ nhân của Lâu Đài Biệt Cư Adra này. Tất nhiên ông ta là một pháp sư có địa vị cao, nhưng ông cũng có chỗ hơi khác thường."
Đáp lại lời mà tôi buột miệng lặp lại theo những gì mình nghe, sư phụ tôi nói nhỏ với tôi.
"Chỗ khác thường?"
"Phải. Em đã biết về Khắc Ấn Ma Thuật rồi, đúng chứ?"
Tất nhiên là tôi đã biết.
Ma Thuật tức là điều Thần Bí. Tuy nhiên, bắt đầu từ Công Nguyên, lịch sử loài người luôn trong quy trình loại bỏ các Thần Bí. Ánh sáng khoa học lan rộng tỉ lệ thuận với bóng tối Thần Bí bị suy thoái. Bất kể pháp sư có chống lại sự thật này ra sao, quy luật ấy vẫn không thay đổi. Sự Thần Bí trong Thời Đại Thần Thánh trở nên quá xa vời, đến nỗi thậm chí nhận thức thoáng qua về chúng trong thế giới ngày nay cũng gần như là bất khả thi.
Khắc Ấn Ma Thuật là đáp án của pháp sư đối với vấn đề được đặt ra bởi dòng chảy thời gian, một "Phép Thần Bí cố định".
"Về bản chất, Khắc Ấn Ma Thuật giống một cơ quan nội tạng mới được tạo nên bằng phương pháp chưng cất trong hàng trăm năm. Vì là nội tạng nên nó không thích nghi được với những gì không thuộc huyết thống, cho nên cơ hội để cho người ngoài can thiệp vào nó là vô cùng hạn hữu. Các gia tộc pháp sư lâu đời có khả năng thực hiện uy quyền của họ, chủ yếu là nhờ vào sự tồn tại của những Khắc Ấn Ma Thuật như vậy."
Lời của sư phụ tôi chuyển thành một giai điệu êm ái, tương tự như bài giảng của thầy tại Tháp Đồng Hồ. Ngay cả trong tình huống căng thẳng cao độ này, dường như năng lực của thầy vẫn không hề thay đổi.
"Nhưng cũng có những ngoại lệ." Thầy nói thêm. "Và một trong số trường hợp ngoại lệ ấy là chủ nhân của lâu đài này. Ashborn nổi tiếng với khả năng phục hồi Khắc Ấn Ma Thuật bị hư hại, và thế nên ông ta được gọi là Phục Nguyên Sư. Đúng như dự đoán, nhà Edelfelt biết được khá nhiều về tiểu sử của ông ta."
Nói xong, sư phụ tôi quay sang quan sát cuộc trạm trán giữa hai người trước mặt chúng tôi.
Với vẻ tức tối, ông pháp sư già đang chọc một ngón tay của mình lên tay vịnh xe lăn, như thể đang cố gắng chọc thủng lớp da bọc cũ. Rồi ông nhìn lên.
"…Nếu vậy, với nhà Edelfelt thì sao? Đã cất công đến vì di sản của Ashborn, thì liệu ta có nên cho rằng đó cũng là vì sự thiếu hoàn chỉnh của bản thân ngươi không đây?"
"Ôi, thật thô lỗ làm sao! Trông tôi có giống một kẻ non nớt đến mức làm tổn hại đến chính Khắc Ấn Ma Thuật của mình không?"
Khóe miệng cô gái nhếch lên, cô nâng váy áo của mình. Như đã đoán, động tác này trông ít giống tư thế chào của phụ nữ mà lại giống kiểu chào của hiệp sĩ hơn.
"Nhưng mà, để cho một kỹ năng quý giá như vậy bị mất đi thì chẳng khác gì một sự tàn nhẫn. Vì thế, tôi phải đến thăm nơi đây để mà thêm nó vào chỗ dưới cùng trong bộ sưu tập của mình đấy."
Cô nói với vẻ cao ngạo. Cô không hề nói rằng kỹ năng ấy là cần thiết đối với mình, mà chỉ nói là nó quý giá, nên cô thấy hoàn toàn bình thường đối với việc đưa nó vào kho chứa của mình. Với một vẻ ngây thơ của trẻ con, cô phát ngôn xanh rờn như vậy.
Không lạ gì khi gia tộc của cô ta mang tiếng là bọn linh cẩu kiêu ngạo nhất quả đất.
Nếu sự việc tiếp diễn như thế này, rất có thể giữa hai người sẽ nổ ra một trận quyết đấu. Chí ít thì Luvia hình như có ý định ấy, và ông pháp sư già không tỏ ra giấu hiệu nào khiến cô thất vọng. Tất nhiên, ngay cả tôi cũng biết những xung đột giữa các pháp sư cũng không phải là hiếm.
Nhưng mà.
Số người được mời đến - hoặc nói đúng hơn là số người đến tham dự - không dừng lại ở Luvia.
"Ô?"
Người đầu tiên quay sang nhìn là Flue. Xuyên qua tiền sảnh, ở tầng hai, các ngón tay trắng bệch đặt trên tay vịn làm từ gỗ sồi Anh, một người phụ nữ nhìn xuống tất cả chúng tôi.
Cô ta đeo mắt kính. Tóc cô, dài hơn nhiều so với tóc của Luvia, đen như màn đêm, và xõa xuống tận mắt cá chân. Trên người của cô diện một loại trang phục thêu hoa rực rỡ, có ống tay dài và trông thật khác lạ.
…Trang phục truyền thống à?
"Kimono dài tay Yuzen[11]... thì phải?" Sư phụ tôi nói nhỏ, đặt tay lên cằm.
Một từ nghe như xuất phát từ phương Đông. Theo như tôi tìm hiểu về sau, có vẻ như nó là thứ cũng đến từ Nhật Bản như Tokitou Jiroubou Seigen. "Dường như số phận của ta hoàn toàn gắn chặt với đất nước đó." - Sư phụ tôi về sau này có phàn nàn như thế.
"Tôi xin lỗi vì đã để mọi người phải chờ."
Người phụ nữ nói trong khi chỉnh lại gọng kính. Người quản gia lúc trước trông chừng ở lối vào hiện cũng đang đứng bên cạnh cô ta.
"Tôi được chỉ định là người mở di chúc của Geryon Ashborn, đến từ Khoa Pháp Chính của Tháp Đồng Hồ. Tên tôi là Adashino Hishiri."
Lại lần nữa, các pháp sư dưới tiền sảnh lập tức chú ý.
Cụm từ "Khoa Pháp Chính" có nhiều ý nghĩa đối với họ. Tôi có thể cảm thấy sư phụ biến sắc bởi một nỗi căng thẳng bất bình thường.
Nhìn xuống họ, Hishiri lấy ra một lá thư duy nhất.
Nó trông khá giống với thư mời được trao cho sư phụ tôi và những người khác, nhưng bên cạnh dấu niêm phong của nhà Ashborn còn có con dấu của Khoa Pháp Chính thuộc Tháp Đồng Hồ.
"Vậy thì," Người phụ nữ nói.
"Tôi xin được công bố di chúc của ngài Geryon Ashborn."
Trong Tháp Đồng Hồ, có mười hai khoa ngành. Mười hai lĩnh vực được giám sát bởi mười hai Lord.
Đại đa số các pháp sư bắt đầu học về ma thuật tại Khoa Cơ Sở Toàn Thể - một phân khoa dạy về mặt bằng chung giữa các dòng ma thuật và kiến thức căn bản về Địa Mạch và Mana. Từ đó, họ sẽ tiếp tục theo học Cơ Sở Cá Thể, Phục Linh Thuật, Khoáng Vật Học, Động Vật Học, Nhân Chủng Học, Thực Vật Học, Thiên Thể Học, Sáng Tạo, Nguyền Chú, Khảo Cổ Học, hoặc Lý Luận Ma Thuật Hiện Đại. Hình thức và khuynh hướng của các phân khoa này thì vô cùng đa dạng, nhưng về cơ bản thì chúng đều nghiên cứu về Thần Bí. Theo lời sư phụ tôi, pháp sư là thực thể tồn tại để tìm kiếm "Vòng Xoáy Căn Nguyên", nên hệ thống này là một kết quả tự nhiên.
Nhưng mà.
Trong Tháp Đồng Hồ, có một phân khoa không hề liên quan trực tiếp đến việc nghiên cứu sự Thần Bí. Họ là những người sử dụng ma thuật và quyền lực của Tháp Đồng Hồ để can thiệp vào xã hội cộng đồng, hoặc nội quy của bản thân Tháp Đồng Hồ. Họ thật sự là thành phần không thể thiếu được.
Khoa Pháp Chính.
Họ không phải là những người học về luật pháp và chính trị - họ là phân khoa về quản lý. Bỏ qua xu hướng chung của tất cả pháp sư là theo đuổi "Vòng Xoáy Căn Nguyên", họ là một phe cánh tà đạo, chỉ nhằm vào việc củng cố nền móng của chính Tháp Đồng Hồ.
Sư phụ tôi muốn nói rằng họ như cái bóng bên trong mặt trời, hoặc mặt trời bên trong bóng râm, như sự thiết yếu trong khái niệm Âm Dương.
Tôi chưa từng thấy pháp sư nào đến từ Khoa Pháp Chính, nhưng giờ thì có một người đang nhìn xuống chúng tôi từ tầng hai phía trên sảnh.
"…Dù sao thì, Khoa Pháp Chính mà đã ra mặt thì việc phân tranh ở đây sẽ trở nên tuyệt đối rồi." Sư phụ tôi khẽ thì thầm.
Dù sao thì đó chính xác là mục đích của Khoa Pháp Chính. Nếu Gergyon Ashborn, người đã khuất cách đây một tháng, chỉ định họ là người mở di chúc, thì việc đó khiến di chúc của ông ta được bảo toàn.
Chưa kể đến bản thân người phụ nữ này. Chỉ nhìn cô ta thôi cũng làm cho toàn bộ máu trong người muốn chảy ngược. Không như tà khí âm ỉ của Orcloke Caesarmund, hoặc vẻ đẹp dữ dội của Luviagelita Edelfelt, cô có một nụ cười tràn đầy ôn tồn và lạnh nhạt như hút người ta vào trong. Cô đem đến một ảo giác như thể đang nhẹ nhàng vuốt lên xương sống của ta từ bên trong.
…Cô ta là một con rắn.
Trực giác của tôi mách bảo vậy.
Nhìn sự lạnh lùng và thu hút của cô, giống như nhìn một con bò sát. Vẻ ngoài kỳ lạ của cô, bộ áo kimono ống tay dài càng tăng thêm ấn tượng về một con rắn đang lột da.
"…Ôi trời. Lại cả Khoa Pháp Chính cơ đấy…"
"…Rặt một lũ tụt hậu nhầm lẫn giữa phương pháp và mục đích…"
Flue và Orlocke cùng lẩm bẩm một mình.
Khi mà lần đầu tiên, hai người này dường như có được một sự đồng tình hiếm hoi với nhau, thì "bọn tà đạo trong Tháp Đồng Hồ", được biết đến là Khoa Pháp Chính, hình như đã sẵn có một hàng khá dài những kẻ địch.
Đổi lại, Adashino Hishiri không hề có vẻ gì là lưu tâm đến họ, và thay vì vậy, cô mở phong thư trong tay mình.
"Di chúc chỉ có ba câu."
Tiếp theo, cô đọc ra ba câu đó.
"Hỏi những cái tên Thiên Sứ."
Giọng cô hơi biến đổi.
Ký ức về chủ nhân trước đây của Lâu Đài Biệt Cư. Geryon Ashborn, vào lúc này được gợi lại. Tôi chưa bao giờ gặp ông ta trước đây, và cũng không cách nào biết được cô ta đã từng gặp ông ta hay chưa, nhưng dù vậy thì hình ảnh một ông già lo lắng ngồi dậy từ chiếc giường vẫn hiện ra trước mắt tôi.
"Những người được hỏi và không thể trả lời, sẽ bị tước bỏ Thiên Sứ bằng mọi cách."
Câu nói tiếp tục.
Tiếng sột soạt bắt đầu lan khắp tiền sảnh. Sột soạt, sột soạt, sột soạt, âm thanh vang lên liên tục. Như thể câu nói của người chủ quá cố là bùa phép, làm thức tỉnh Thiên Sứ mà ông thu gom vào trong lâu đài này. Ảo giác Thiên Sứ vô hình tụ lại như bong bóng bám víu trên sàn, trên tường, và cả trên trần.
"Kẻ nào bắt được Thiên Sứ của ta, sẽ trở thành người thừa kế gia sản."
Nói đến đây, cô ta ngừng lại.
"…Hết rồi à?" Flue hỏi.
Gãi cái cằm râu ria của mình bằng bàn tay bẩn, ông hỏi người mặc kimono tên là Adashino Hishiri.
"Đúng thế. Đặc biệt là không hề có thời hạn cụ thể nào được đặt ra cả."
Cùng một cái gật đầu, Hishiri gấp lá thư lại.
Kết hợp cùng trang phục của cô, đó là một cảnh tượng làm liên tưởng đến một bài thơ ở Viễn Đông. Tôi có cảm giác là mình đã đọc ở đâu đó về thể loại thư tình viết bằng thơ và gửi nó, nhưng tôi không biết liệu đó có phải là thể loại phù hợp với nét đặc trưng văn hóa trên trang phục của cô hay không.
"Còn nữa, có một gợi ý đã được giao vào tay mỗi người. Xin hãy xem thư mời của các vị."
"Thư mời?"
Sư phụ tôi cầm lên lá thư mời của chúng tôi. Ở một chỗ mà lúc trước là khoảng trống, các ký tự vàng óng hiện ra. Hình như hiện tượng tương tự cũng xảy ra với lá thư mời của những người khác, điều mà thầy thầm xác nhận.
"Đó sẽ là 'Tên Thiên Sứ' của mỗi người." Cô ta nói nhỏ.
"Ra vậy. Chữ nổi lên theo bước sóng ma lực của vùng đất này à? Một thuật thức đơn giản, nhưng có vẻ hữu ích trong ứng dụng đấy." Sư phụ tôi nói với vẻ ngưỡng mộ.
Có vẻ như óc tò mò của thầy được khơi dậy. Những lúc thế này, biểu cảm của thầy giống như của một con mèo có được món đồ chơi ưa thích của nó, nhưng không rõ liệu thầy có nhận ra điều đó hay không. Xem xét các ký tự trên lá thư, thầy hơi nheo mắt lại.
"'Tên Thiên Sứ' hử? Có phải kiểu như một cái tên ma thuật không?"
Một số nhóm pháp sư đặt ra những cái tên để tạo sự khác biệt giữa họ với cái tên thông thường mà tổ tiên của họ đặt cho. Có vẻ như đó là vấn đề đơn giản, việc tạo ra một cái tên cá tính để rồi có thể liên đới đến loại ma thuật chuyên sâu của họ. Không hẳn là lúc nào nó cũng phải là một biệt danh để nói đến bản thân họ, thỉnh thoảng nó cũng dùng để nói lên niềm tin của hoặc một khẩu hiệu ưa thích của họ.
Dường như kiểu tên gọi này thường được xem là tên ma thuật. Tuy nhiên, khi mà hầu hết các dòng họ pháp sư có liên hệ với Tháp Đồng Hồ từ lâu đã quyết định dấn thân vào con đường theo đuổi ma thuật, dường như không còn ví dụ bình thường nào về nó xuất hiện dạo gần đây.
"Còn nữa, ngoài lá thư này ra thì mỗi người cũng được giao cho một căn phòng trùng tên với 'Tên Thiên Sứ' của mình để lưu trú. Xin hãy xác nhận qua tấm biển tên treo ở mỗi phòng và tùy ý sử dụng. Có vẻ như bữa ăn trong thời gian các vị lưu lại sẽ do các người hầu của Geryon sửa soạn."
Người quản gia lúc trước cúi chào.
Hình như một số người hầu của ông Geryon vẫn ở lại sau khi ông ta qua đời. Tôi không biết có phải họ đơn giản là vì lòng trung thành hay vì vẫn chưa xong hợp đồng giao ước, nhưng nghĩ đến việc họ vẫn còn ở lại đây sau cái chết của người chủ khiến cho tôi thấy lạnh sống lưng.
"Cho đến khi người thừa kế được quyết định, tôi cũng sẽ trú lại trong lâu đài này theo dự định. Tôi mong chờ được cộng tác cùng các vị."
-Vậy quay trở về thời điểm hiện tại.
Trong phòng của chúng tôi.
Ánh sáng lờ mờ từ một cây nến dùng để thắp sáng căn phòng, mà đúng như đã đoán, đầy kín các Thiên Sứ. Từ các bức tranh trên tường đến các họa tiết trên các tủ, đến các con búp bê trên các giá xếp và lớp kính chụp đèn, các Thiên Sứ ở khắp mọi nơi. Dường như sự ám ảnh của Geryon Ashborn quá cố đối với Thiên Sứ khá là triệt để.
Tôi đang ngồi trên giường. Sau khi đi loanh quanh trong lâu đài vài tiếng đồng hồ, và vụ rắc rối với Luvia lúc nãy, chúng tôi cuối cùng cũng tìm được đúng căn phòng - có khắc tên Thiên Sứ Mihael - và có thể thở phào.
"'Kẻ nào bắt được Thiên Sứ của ta, sẽ trở thành người thừa kế gia sản' à?"
Sư phụ tôi lầm bầm trong khi ngồi trên ghế sofa. Cởi áo khoác và áo jacket, thầy bắt đầu xoa bóp đôi chân mỏi mệt của mình. Vừa làm, thầy vừa lấy một điếu xì-gà trong hộp đựng và đưa nó lên miệng. Mùi khói nhanh chóng lan ra trong phòng, ám lên các vật dụng trông có vẻ đắt tiền. Đáng lẽ ra tôi phải thấy phiền lòng vì điều đó, nhưng tôi quyết định không nhắc đến.
Bởi vì qua việc ngửi mùi hương này, tôi cảm thấy như quay trở về căn hộ của sư phụ tôi như lúc thường.
Cẩn trọng giấu đi suy nghĩ trong đầu, tôi lấy một hơi sâu và vỗ lên hai má của mình. Nghe âm thanh ấy, sư phụ tôi quay sang nhìn tôi, thế là tôi nói.
"…Thưa sư phụ, thầy có hiểu được ý nghĩa của mấy câu đó không ạ?"
"Thôi nào, hiện tại đang có quá nhiều phương án. Dù gì thì Thiên Sứ cũng ngập đầy thế này cơ mà."
Thầy nói tuyệt đối đúng. Tiền sảnh, căn phòng này, các hành lang, và các bậc thang… Các Thiên Sứ bày ở khắp mọi nơi, đến mức gây ra cảm giác tù túng. Nếu đếm kỹ, riêng số lượng mà chúng tôi thấy thôi cũng dễ lên đến một trăm. Nếu muốn xét xem có bao nhiêu Thiên Sứ trong cả lâu đài, tôi thậm chí không thể tưởng tượng nổi.
"Mà dẫu không phải như vậy đi nữa, thì bản thân đề tài Thiên Sứ cũng đã được sử dụng quá rộng rãi trong lịch sử và các khu vực. Nếu đã thu thập chừng này biểu tượng thì trái lại, phần tiêu điểm sẽ bị lu mờ đi. Quả thực, khó mà phân biệt được từ đâu đến đâu là liên quan đến ma thuật, từ đâu đến đâu là sở thích đơn thuần."
"I-hi-hi-hi-hi! Cứ trưng cái đống kiến thức rộng rãi đó ra là có thể che đậy sự bất tài của bản thân đấy nhỉ?"
Gần bên tay phải của tôi, một giọng nói vang ra. Nhưng lần này, sư phụ tôi không bỏ qua nó.
"Gray, em lôi Add ra đây cho ta được không?"
"Vâng."
Thế là tiếng nói thứ ba bỗng nhiên bắt đầu hoảng sợ.
"C-Chờ đã, Gray! Cô định bán đứng tôi đấy à?"
Lờ đi lời kêu ca, tôi phất tay, gỡ cái móc dưới tấm áo trùm của mình, để cho một cái lồng dài và mỏng rơi xuống đất. Bên trong cái lồng đó là một vật có hình thù kết từ nhiều khối lập phương nhỏ. Nó trông tương tự như đồ chơi Khối Rubik mà tôi đã được thấy khi tới Luân Đôn, nhưng ngoài chuyện có nhiều chi tiết tinh tế và phức tạp, nó còn có chi tiết trạm trổ hình đôi mắt và cái miệng ở mặt trước.
Đôi mắt đó xoay chuyển như đang nhìn về phía tôi.
"C-Cô! Tôi tưởng dù sao chúng ta cũng đã làm bạn bè với nhau được hơn mười năm rồi cơ mà! Cô chẳng có mấy người bạn, nên hãy bảo vệ tôi một chút, không, ít nhất cũng tỏ ra do dự khi làm, thế mới là tình người chứ! Không, bây giờ cô hối hận và giấu tôi đi thì cũng chưa muộn đâu! Giấu tôi đi mà! LÀM ƠN GIẤU TÔI ĐI MÀ!!"
Cái miệng nói liến thoắng.
Đây là hình dạng thật của tiếng nói thứ ba luôn xen vào cuộc nói chuyện giữa chúng tôi.
Add.
Một dạng Lễ Khí mà tôi nhận được khi còn ở ngôi làng quê tôi. Tôi chưa được thấy nhiều Lễ Khí, nhưng đối với tôi thì món đồ biết nói này vẫn khá là dị thường.
Thay vì giống sinh vật sống, “ông ta” lại giống như một hình họa 3D mà tôi được biết đến sau khi đến Luân Đôn. Đối với tôi, ông đã ở đây từ cái này tôi sinh ra - phải đau đớn thừa nhận rằng ông thật sự là người bạn đầu tiên của tôi - nên tôi không hề nhận thấy ông có gì lạ cả. Nhưng mà, khi sư phụ tôi lần đầu tiên thấy ông ta, thầy đã vô cùng kinh ngạc, đến nỗi trông như muốn tháo rời ông ra.
Giờ là như thế đấy.
Nắm lấy mặt trước của cái lồng, thầy ra sức lắc nó lên xuống như một người pha chế cocktail.
"Ặc-ạc-ạc-ạc-ạc-ạc-ạc-ạc-da!"
Add la lối. Nện chiếc hộp trong lồng vào khắp mọi chỗ, đến khi nhận định rằng đã trừng phạt ông ta đủ rồi, sư phụ tôi quăng trả cái lồng lại cho tôi.
"Tốt. Mà, ta và em sẽ điền đầy đủ chi tiết bản đồ ghi chú trong khi điều tra lâu đài."
"…Ừm, cả em nữa ạ?"
"Không có em hộ vệ thì ta làm được gì chứ? Nói cho rõ ràng nhé, nếu vướng vào trận chiến với bất cứ pháp sư nào trong số họ, thì ta cũng sẽ chết thôi."
Ưỡn ngực ra, thầy muốn chứng tỏ mình vô năng như thế nào. Tất nhiên, lời tuyên bố của thầy xếp gọn vào cùng với những nhận định trước đây của tôi, nhưng tôi mong thầy ấy cố gắng giấu điều đó nhiều hơn chút nữa.
Có lẽ cảm xúc đó đang hiển hiện trên mặt tôi, bởi vì…
"Thất bại trong việc trưng ra một bộ dạng thừa thãi, chỉ thế thôi là quá đủ cho tuổi thanh xuân của ta rồi." Sư phụ tôi nói.
-Tuổi thanh xuân của thầy.
Thực ra thầy nói thế là có ý gì? Tôi không hiểu rõ lắm khái niệm "thanh xuân" ở đây, nhưng tôi hoài nghi liệu sư phụ tôi từng có một thời như thế. Nhìn sư phụ tôi như hiện giờ, đang nhả khói xì-gà, tôi không thể tưởng tượng ra điều gì ngoài chuyện thầy từ khi sinh ra đến bây giờ vẫn giống như vậy. Việc đó thậm chí có chút phật lòng.
Có thể bởi thế mà tôi đột nhiên cảm thấy muốn hỏi thầy một câu.
"Tại sao sư phụ lại muốn thừa kế Lâu Đài Biệt Cư này thế ạ? Em nghe nói nhà El-Melloi đang gánh nhiều khoản vay, nên có phải việc này là để trả số nợ ấy?"
"Nghe cho rõ này."
Với một nụ cười nhăn nhó, sư phụ tôi nhướn một bên mày. Chạm một ngón tay lên điếu xì-gà đã ngắn lại của mình, thầy hơi nheo mắt lại.
"Tất nhiên là ta cũng muốn trả nợ. Nhưng nếu việc thừa kế nơi này có gì đó liên quan đến Khắc Ấn Ma Thuật đúng như lời đồn, thì nó sẽ mang một ý nghĩa quan trọng hơn đối với ta và Reines."
"Với Reines-san sao ạ?"
Tôi không ngờ là tên em gái của thầy được nhắc đến ở đây, nên có hơi cao giọng hơn so với chủ ý của mình. Nhưng khi nghĩ lại, vì có yêu cầu của chị ấy mà sư phụ tôi mới phải đến đây. Sau khi gặp tất cả những pháp sư kia và biết được về việc thừa kế, tôi đã hoàn toàn quên mất, nên khi đột ngột chuyển sang đề tài này, tôi bị mất cảnh giác.
"Rốt cuộc thì, đó là lý do để một kẻ như ta lại được quyết định là người thừa hưởng cái tên El-Melloi mà." Thầy nói, đặt xì-gà lên cái gạt tàn. Điếu xì-gà cụt ngủn, mục đích sử dụng của nó đã hoàn tất, để lại một làn khói nhỏ nhanh chóng biến mất. Tương tự như nó, dường như cuộc nói chuyện này đã đi đến kết thúc.
"-Thôi, trước hết hãy đi ngủ cái đã. Ngày hôm nay đã mệt mỏi quá rồi."
Vươn vai, sư phụ tôi nằm xuống sofa.
"Sư phụ?"
"Tiểu thư, em dùng giường đi nhé. Tới chỗ phòng dành cho người hầu nam thì rắc rối lắm, nên ta sẽ định cư trên ghế sofa vậy."
Nói thế, thầy nhắm mắt mà không chờ lời đáp. Thậm chí dù không cần tắm rửa, thầy cũng chẳng chuẩn bị gì trước khi đi ngủ ngoài việc cởi áo jacket. Đối với chuyện này, cô em gái nuôi Reines luôn luôn dành cho sư phụ tôi cái nhìn sát ý, nhưng tôi cất giọng vì một lý do khác.
"Nhưng thưa sư phụ."
Tôi nói, rồi lại thôi.
Thầy đã ngủ mất rồi.
Ngoài dự đoán, có vẻ như lời nhận xét của thầy rằng ghế sofa thoải mái hơn chẳng hề là lời nói dối. Điều này khá quen thuộc khi thấy thầy ngủ trên sofa trong căn hộ hoặc phòng thí nghiệm. Tôi đã từng thấy nhiều lần đến mức phát chán với việc thầy ngủ trên sofa cùng với máy chơi game console trên tay.
Nhưng bây giờ-
"..."
Im lặng, tôi ngó xuống gương mặt của thầy. Có thể vì thầy luôn luôn nhăn nhó nên có những nếp nhăn mờ ở giữa cặp lông mày của thầy. Chúng khá rõ ràng lúc này, nên sau một thời gian, chắc hẳn chúng sẽ đủ sâu để trông giống vết sẹo. Có thể đây là ý nghĩa của câu nói thêm tuổi là thêm nếp nhăn.
Cả hữu hình lẫn vô hình.
Tay tôi duỗi tay ra, chỉ dừng lại trước khi các ngón tay chạm vào má thầy. Giờ thì chỉ có vài cen-ti-mét giữa chúng tôi, nhưng tôi vẫn không thể chạm vào thầy.
"Hi hi! Sao thế, Gray? Có phải cô đã phải lòng chỉ với việc ngắm bộ mặt đang ngủ của ổng?"
"..."
Tôi thấy không cần phải đáp lại.
Nắm chặt lấy cái lồng bằng một tay, tôi bắt đầu quay nó lòng mòng bằng mọi sức lực.
"Hạcdaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa!"
Sau khi nghe tiếng kêu thê thảm của nó, tôi cảm thấy có phần thư thái.
"…Cảm ơn."
Khi nói, tôi cúi chào hướng về phía sofa.
Tôi leo lên giường và kéo chăn, chúng phảng phất mùi xì-gà. Điều này hết sức không thoải mái.
Chỉ vài phút sau, tâm trí tôi chìm vào trong bóng tối ấm áp của giấc ngủ.
Sáng hôm sau, tôi dậy sớm hơn sư phụ tôi một chút.
Sau khi thay đồ, tôi kéo mở rèm và tắm mình trong ánh nắng ban mai. Tôi không đặc biệt thích mặt trời nhưng trong môi trường này, các biểu tượng thông thường, cuộc sống hàng ngày hiếm hoi như vậy đấy. Sau khi hít một hơi sâu, tôi lấy lại Add ở trên đầu tủ giường.
Quay qua, tôi gài cái lồng lại vào ống tay áo phải của mình. Khoảng phân nửa dưới áo khoác, tôi chỉnh cho nó nằm giữa vai và cùi chỏ của mình. Nhưng bên ngoài nhìn vào thì nó hầu như vô hình. Sư phụ tôi có vẻ ấn tượng về việc đó, nhắc đến thứ gì đó như Derringer[12], nhưng tôi không rõ ý thầy là gì.
Quay lại, tôi điều hòa lại hơi thở một chút trước khi nói.
"… Sư phụ ơi, thầy vẫn chưa thức dậy ạ?"
Một tiếng rên khó tả đáp lại câu hỏi của tôi.
"…Em sẽ chuẩn bị y phục mới cho thầy."
Việc này cũng vậy, cũng là cuộc trao đổi vào buổi sáng thường ngày giữa chúng tôi. Dù nói vậy nhưng chúng tôi không thường hay ngủ chung phòng nên chuyện này vẫn có hơi kỳ cục.
Đặt mớ quần áo mà tôi lấy ra từ va-li gần tầm với tay của thầy, thầy bắt đầu thay đồ, với đôi mắt vẫn nhắm, và vẫn nằm trên sofa. Thầy chắc vẫn còn ngái ngủ. Cố không lo lắng quá về việc này, tôi chuyển sang chuẩn bị những thứ khác. Các điếu xì-gà của thầy là những thứ duy nhất mà thầy vui lòng mang theo bên mình, nên đến lúc này thì công việc của tôi là mang vác dùm thầy những thứ như khăn tay và một vài thứ nho nhỏ khác. "Ổng là gì chứ, con nít tiểu học chắc?" là câu mà Add muốn nói. Thật sự thì tôi đồng tình với ông ta.
Chỉ đến khi mọi thứ gần như sẵn sàng, thầy mới nói.
"Chào buổi sáng, tiểu thư."
Với câu nói đó, xem ra thầy cuối cùng cũng thức dậy. Thầy mơ màng ngồi dậy từ ghế sofa, dụi mắt.
"…Cổ áo của thầy bị xoắn."
Sau khi thầy chỉnh lại cổ áo và chải mái tóc dài, chúng tôi rời khỏi phòng.
Phòng cho khách mà chúng tôi được dẫn đến là một trong các phòng chính giữa tầng hai của lâu đài. Phần nội thất của lâu đài không đến nỗi phức tạp, nhưng từ kích thước của các phòng và độ rộng của các hành lang, nó khiến cho hơi thở của tôi loạn nhịp. Dù sao thì, các bức tường có trưng bày các bức bích họa thường thấy và các tượng Thiên Sứ. Kể từ lúc đến lâu đài, nhờ có điều mà sư phụ tôi nói về cách thức hóa giải khái niệm Thiên Sứ, tôi đã liên tiếp khắc phục thứ ảo giác bẫy chúng tôi vào vòng lặp bất tận.
Khi chúng tôi đến gần một trong các phòng lớn ở tầng hai, Add bắt đầu run rẩy.
"Ô ồ, mùi gì mà ngon quá vậy?!"
Lần cuối mà tôi kiểm tra thì cái hộp không có mũi, vậy làm sao mà ông ta ngửi được?
Nhưng mà ông nói đúng. Có một mùi hương rất thơm đến nỗi khiến cho bụng tôi sôi lên thấy rõ. Và cũng không chỉ có một mùi, mà là cả một tràng các hương thơm hài hòa một cách hoàn hảo.
Ngay lúc chúng tôi mở cửa, nguồn tỏa ra mùi hương đó trở nên hiển nhiên.
"Chào buổi sáng, Lord El-Melloi II."
Ở giữa căn phòng lớn có đặt một cái bàn đá hoa cương lớn, đủ lớn cho hai mươi người ngồi thoải mái. Đứng ngay bên cạnh nó là Adashino Hishiri, và khi thấy chúng tôi bước vào, cô quay sang chào hỏi chúng tôi.
"Tôi xin lỗi vì đã không thể chào hỏi các vị đàng hoàng hơn vào ngày hôm qua."
"Xin đừng đắn đo về chuyện đó. Chào buổi sáng, cô Adashino." Sư phụ tôi đáp lại lời chào với một vẻ rõ ràng là lo âu, và lập tức nhận được nụ cười tươi của Hishiri.
"Anh cứ gọi là Hishiri đi, tôi không phiền gì đâu mà."
Tôi tự hỏi có bao nhiêu người đàn ông vui lòng dâng hiến linh hồn của họ chỉ vì nụ cười đó. Diện mạo phương Đông bí ẩn của cô rõ ràng là khuấy động sự tò mò của những người thuộc cả hai giới tính. Trang phục lộng lẫy của cô, với màu sắc tươi sáng, các nếp gấp, như để ẩn giấu sâu hơn nữa sự ngọt ngào nữ tính. Nhìn kỹ hơn, có vẻ như thiết kế phức tạp của bộ kimono mà cô mặc là loại áo dệt thủ công, càng làm dấy lên hơn nữa nỗi lo sợ trong lòng tôi. Sư phụ tôi từng nói rằng Nhật Bản là một đất nước kỳ lạ, nơi mà người ta làm nhà chẳng từ gì ngoài gỗ và giấy, nhưng có lẽ đất nước ấy có những điều bí ẩn thậm chí còn to lớn hơn ma thuật của nó. Như ninja chẳng hạn.
"Đáng tiếc, tôi lại là một kẻ nhút nhát. Tôi không giỏi giao tiếp với những phụ nữ đẹp đâu."
"Ồ, nhưng anh lại dẫn theo một người tùy tùng đáng yêu thế cơ mà." Cô nói, chuyển ánh mắt sang tôi.
Tôi rụt lại trong vô thức, lùi sâu vào trong mũ trùm của mình. Tất nhiên đối với tôi, không phải vì tôi kém cỏi khi tiếp xúc với phụ nữ đẹp. Tôi kém cỏi khi tiếp xúc với bất cứ ai mà tôi không biết.
"Có lẽ nào, em khoác mũ trùm đầu cả khi ở trong nhà là để giấu đi gương mặt dễ thương của mình à?"
"Đích thị. Tôi không muốn thấy."
Hishiri nở một nụ cười kỳ quặc, như thể cô bị bất ngờ với lời đáp này.
"Anh quả đúng là một người thú vị. Khi nào trở về Tháp Đồng Hồ, tôi muốn được thư thả nói chuyện nhiều hơn với anh đấy."
"Cô thứ lỗi cho, nhưng nếu mà có quan hệ thân thiết với Khoa Pháp Chính, tôi sẽ không thể chịu được sự xấu hổ."
"Nếu là anh thì đâu có ngại những lời bình luận đó nhỉ? Đi tiên phong dẫn dắt nhiều
"Cái đó chỉ đem lại toàn rắc rối thôi. Nếu không thì người ta đâu có giao Khoa Ma Thuật Hiện Đại cho tôi chứ?"
Sư phụ tôi đằng hắng.
Vị thế hiện tại của sư phụ tôi tại Tháp Đồng Hồ là kết quả của một cuộc trao đổi có qua có lại, theo nhiều nghĩa khác nhau.
Từ đây, chúng tôi xác định chỗ ngồi của mình. Trước mặt Hishiri là một đĩa sứ và một cái bát sơn mài, cùng với một đôi đũa. Trên đĩa là một món cá sốt gì đó, và một cái chén toàn cơm trắng. Nói các khác, đó là một bữa sáng kiểu Nhật.
"Hình như chỗ ngồi của chúng ta đằng kia." Sư phụ tôi nói, nhìn ra tận cuối bàn ăn.
Trước một bộ khăn ăn có thêu biểu tượng của gia tộc El-Melloi, có bánh mì nướng, trứng luộc, thịt dồi, và đậu hầm được bày cùng với bộ đồ dùng bằng bạc. Về cơ bản, đây là bữa sáng truyền thống của người Anh.
Đây là nguồn tỏa ra các mùi hương mà chúng tôi nhận thấy lúc nãy.
Quanh bàn có đặt các xuất ăn rất đa dạng, mỗi loại nói lên khẩu vị và xuất thân của vị khách mời.
Việc đi ngược lại ý kiến cộng đồng về ẩm thực Anh Quốc bắt đầu từ cuối Thế kỷ 19, khi mà giới trung lưu bắt đầu thuê mướn hầu gái đa dụng. Các thiếu nữ trẻ này được thuê từ miền quê mà không xét đến kỹ năng nấu nướng của họ, dẫn đến các chuẩn mực nấu ăn trên toàn quốc bị giảm sút thấy rõ. Nhưng mà dường như người hầu của nhà Ashborn hoàn toàn không thay đổi theo trào lưu.
"Xem ra họ đã có tìm hiểu về chúng ta." Sư phụ tôi càu nhàu bước đến chỗ của mình.
Tất nhiên, không đời nào họ có thể biết khẩu vị và xuất thân của các vị khách mà không làm thế. Nó khiến tôi tự hỏi Geryon Ashborn đã biết được bao nhiêu về chúng tôi trước khi ông ta qua đời. Ông đã nghĩ gì khi gửi những lá thư mời ấy, và đặt cho chúng tôi những cái tên Thiên Sứ ấy?
Khi tôi đang mải ngẫm nghĩ-
"Ồ, chẳng phải trông cũng thịnh soạn đấy ư?"
"Ô, là đồ ăn chay à? Có cả nấm trân châu rang với đậu phụ nữa nè! Dương xỉ thì có thể lấy được ở quanh đây rồi, nhưng thổ đương quy với măng mà cũng kiếm được thì hay quá!"
Các vị khách khác lần lượt đến phòng ăn.
"Heine-Nii-san! Uống với tôi đi!"
Lấy ra một cái chai rượu sake Nhật Bản của riêng mình, người này không phải ai ngoài Tokitou Jiroubou Seigen. Bất chấp sự kết hợp kỳ quặc giữa tấm bịt mắt và áo thầy tu Viễn Đông, chỉ sau vài giây gặp mặt, điều đó không còn khác lạ nữa.
Nhân tiện, hình như Heine và Rosalind đang trở nên thân thiết với anh ta, khi mà anh cùng ăn sáng với họ.
"Thôi, tôi xin thứ lỗi, chứ uống rượu từ lúc sáng sớm thì…"
"Không không, tôi thích Nii-san mà. Một cốc đầy nào!"
"…Thôi thì, tôi đã hứa rồi nhỉ."
Bằng một nụ cười có chút cay đắng, Heine cầm lấy cái ly. Bằng một cử động nhanh nhẹn, anh làm một hơi cạn sạch ly, khiến gương mặt của Yamabushi độc nhãn ánh lên.
"Ô, uống khá đấy chứ! Còn em gái ấy thì… chưa dùng được Bát Nhã Thang[13] đâu nhỉ? Cho nhờ chút anh phục vụ ơi, trà đen cho cô bé này nhé." Anh ta nói với một trong những người hầu đứng gần đấy.
"…Cảm ơn." Cô bé nhận lấy tách trà với một cái gật nhẹ để cảm ơn.
Nhìn em cau mày sau khi làm một hớp trà, Heine nở một nụ cười dịu dàng.
"Có lẽ Rosalind vẫn còn quá nhỏ để uống nó nhỉ."
"E-Em uống được!" Em ấy phản đối, nắm chặt lấy tách trà.
"Anh hiểu mà. Cho nên, để anh thêm ít sữa vào nhé? Như thế mới là cách uống của một quý cô chứ."
"…Thật ạ?"
Rosalind nghiêng đầu sang bên, tạo nên ấn tượng giống như một con chim trắng nhỏ. Vì lý do gì đó, khi làm thế, em quay sang phía chúng tôi.
"Lord El-Melloi II-sama, có thật thế không ạ?"
"?!!"
Không phòng bị trước câu hỏi bất ngờ, sư phụ tôi giật thột. Sau khi khó nhọc để tránh bị nghẹn, thầy đằng hắng và ngồi ngay ngắn lại, rồi gật đầu.
"Là thật đó, thưa tiểu thư. Đúng như Onii-sama của cô đã nói đấy. Trà sữa là thức uống dành cho những người thanh lịch, nên cứ an tâm mà cho vào đi. Nếu có thể thì cho đầy tràn cũng được."
"Vâng! Cám ơn ngài ạ!" Với một nụ cười tươi, em cầm chiếc tách giờ đã thêm sữa. Lần này, em tỏ vẻ thật sự thích thú với thức uống này.
Thấy vậy, tôi nhẹ nhàng nhận xét.
"…Đôi khi em lại nghĩ, sư phụ thật là ngọt ngào với trẻ con nhỉ?"
"…Miễn bình luận." Thầy nói, tránh ánh mắt của tôi.
Chỉ một chút, tôi có thể thấy hai tai của thầy ửng đỏ. Không chú ý đến sự ngượng nghịu của thầy thêm nữa, tôi quay sang lối vào phòng.
"Ồ, chẳng phải là sake đây sao! Lại còn có mùi thượng hạng nữa!"
Bằng cái mũi chun lại, Flue bước vào phòng.
"Tránh ra! Đây là báu vật mà tôi mang từ tận Nhật Bản đến!"
"Đừng như thế mà! Đây, tôi sẽ bói cho cậu một quẻ để đổi lấy nó nhé!"
Khi ông ta tháo đai lưng, không khí ngạc nhiên lan khắp bàn. Trên cái đai ấy xếp khoảng một tá dao găm. Cán gỗ vừa vặn để có thể sử dụng nhanh chóng, nhưng lưỡi dao được mài bóng đến một độ sáng dễ sợ.
"Ra thế, chuyên môn của ông là thuật chiêm tinh nhỉ." Sư phụ tôi nói nhỏ, chỉ vào các ký hiệu chòm sao in trên các con dao. Ngay cả tôi, người chưa được học gì nhiều, cũng có thể nhận ra mười hai biểu tượng Hoàng Đạo khắc trên chúng.
"Chính xác. Nếu là bình thường thì dù có chồng một xấp tiền lớn cũng phải đợi nhiều tháng, nhưng hôm nay, vào lúc này, tôi sẽ làm một cuộc mặc cả đặc biệt. Cố đừng khóc khi cảm ơn tôi nhé!"
Flue cầm các con dao như cầm các lá bài. Thay vì giống một người biểu diễn ném dao, ông tỏ ra ấn tượng như một thầy bói đang xoay Bánh Xe Vận Mệnh.
"Nào, quý khách, tên và ngày tháng năm sinh… à mà cái đó là điều cấm kỵ giữa các pháp sư với nhau nhỉ. Hãy giao phó tất cả cho những vì sao và lưỡi dao vậy, trước hết hãy xem số mệnh nào!"
Bốn con dao phóng lên. Các lưỡi dao lơ lửng một cách không tự nhiên trên không, gần như thể vị trí của chúng đang tạo hình một chòm sao, trước khi chúng rơi xuống bàn. Nhưng trước khi đụng vào bàn ăn bằng đá hoa cương, chúng cắm vào thứ khác.
Một cái đĩa nhỏ.
Hệt như cái đĩa đã tấn công Heine ngày hôm qua, giờ đang làm nhiệm vụ cản trở chuyển động từ con dao của Flue. Với một vẻ nhăn nhó, Yamabushi độc nhãn buộc lòng phải chìa chai rượu ra.
"Tha cho tôi vụ tự ý bói toán cho người khác đi. Nếu là sake thì tôi sẽ chia cho ông mà, nên thả tay xuống dùm cái."
"Hê hê, cảm ơn lòng tốt của anh."
Nhận lấy chai rượu với tư thế cảm tạ, ông cầm nó về chỗ của mình và rót vào ly. Chất lỏng màu trắng sữa trông có vẻ không hợp với ly uống rượu, nhưng mùi thơm nồng quả thật kích thích khẩu vị. Flue vui vẻ làm một hơi cạn ly rượu, và sau một tiếng thở ra mãn nguyện, ông lại tự rót thêm một ly nữa, nhận lấy cái nhìn không vui từ Seigen.
"Này! Anh định uống bao nhiêu nữa vậy?"
"Đừng cau có như thế. Anh sẽ bị hói sớm đấy biết không."
"Hói chẳng liên quan gì ở đây cả! Gì cũng được, trả rượu lại đây!"
Quan sát vụ cãi cọ ngu ngốc nổ ra giữa hai người bọn họ-
"…Thật là man di."
Một nhận xét được nêu ra đằng sau bọn họ.
Khác với giọng quyến rũ của Hishiri, giọng nói này mang đến sự ngọt ngào và đẹp đẽ của những bông hoa mới nở. Người đầu tiên lên tiếng chào hỏi cô ta là sư phụ tôi.
"Luviagelita Edelfelt."
"Tôi có thể ngồi cạnh ông được chứ?"
"…Xin cứ tùy ý."
Bất chấp vẻ miễn cưỡng rõ ràng, thầy vẫn gật đầu. Dù sao cũng không thể phủ nhận rằng biểu tượng của gia tộc Edelfelt in trên bộ khăn ăn bên cạnh chúng tôi.
Đứng sau cô là một người đàn ông diện kiểu tóc bờm ngựa mà tôi chưa từng thấy trước đây. Anh ta cao gần hai mét, với đôi vai rộng gần bằng nửa chiều cao. Trái ngược với kiểu tóc và cặp kính râm khá nổi bật, anh diện một bộ đồ nghiêm túc màu đen từ đầu đến chân. Nếu mang theo thứ gì đó kiểu như súng máy, anh sẽ trông như vừa mới nhảy ra từ một bộ phim về mafia - anh có cái vẻ vạm vỡ ấy.
Như thể nhận thấy ánh mắt của tôi, Luvia giới thiệu anh ta.
"Đây là người hầu nam của tôi, tên là Clown. Đáng tiếc là tôi đã lệnh cho những người hầu khác về nhà, nên anh ta là người duy nhất có mặt cùng tôi lúc này."
"Clown [chú hề]? Cái tên nghe có vẻ không hợp lắm với người."
"Con người ta đâu thể quyết định tên gọi của bản thân chứ." Luvia trả lời với một cái phất tóc.
…Ừ thì, để uốn mái tóc được như thế, chắc hẳn là cô ta khó mà tự làm được. Nhưng tôi đoán rằng một pháp sư của cỡ như Luvia có thể làm được điều đó bằng ma thuật của mình.
Sau màn giới thiệu, sư phụ tôi chuyển ánh mắt sang lối vào một lần nữa.
"Có vẻ như ngài Orlocke sẽ không dùng bữa cùng chúng ta."
Orlocke Caesarmund và cậu bé đồng hành cùng ông ta là những người duy nhất vẫn chưa đến bàn ăn sáng. Một chỗ trên bàn dành cho họ vẫn chưa được bày biện. Hình như ông đã yêu cầu người hầu của nhà Ashborn mang bữa ăn đến tận phòng mình.
Tất nhiên là tôi không thích ông ta cho lắm, nhưng thậm chí vai của sư phụ tôi cũng giãn ra một chút trong nhẹ nhõm khi cầm con dao lên.
Tự lấy đồ ăn cho mình, sau khi cắn miếng đầu tiên, tôi ngừng lại. Cả dồi lợn lẫn đậu hầm đều được chế biến và nêm nếm hoàn hảo đến nỗi tôi suýt kêu lên một tiếng khoan khoái. Ở chỗ Krishna nấu ăn khá giỏi, nhưng sự khác biệt về nguyên liệu quá lớn để có thể vớt vát bằng kỹ năng. Mặt ngoài của dồi kết hợp với vị cay của tiêu, và sự pha trộn của các hương vị trong món đậu hầm và khoai tây điểm tô thêm, quả là một trái nghiệm phi thường. Như thể mong cầu sự kết hợp của bánh mì nướng giòn phết chút bơ nhạt, tôi vô thức vươn tay về phía chúng. Thậm chí nước trong ly là đồ uống có ga càng kích thích khẩu vị thêm nữa. Giữa trạng thái phơi phới ấy, một nụ cười nở ra trên gương mặt sư phụ tôi.
Nhưng lần này nó không đến mười phút.
Khi chúng tôi đang dùng bữa ăn thỏa mãn tất cả mọi người-
"-Tôi có một chuyện này, mọi người có thể nghe chứ?"
Luvia bỗng nói.
Ánh mắt của mọi người trong phòng đổ dồn vào cô. Ngay cả trong căn phòng đầy những pháp sư tài giỏi, cô vẫn có một sự thu hút không thể kháng cự.
"Đêm qua, tôi đã được Lord El-Melloi II-sama chỉ cho một gợi ý về 'Tên Thiên Sứ' của chúng ta."
"!!!"
Dành cho sư phụ đang giật mình của tôi một nụ cười kiêu kỳ, Luvia nói tiếp.
"Ngài ấy nói rằng chúng được đặt theo Schemhamphoras."
Khắp phòng, một số ít người cho thấy vẻ hoảng hốt trước thông báo này, trong khi số còn lại có vẻ đang gật gù như thể nghi vấn của họ vừa được xác nhận.
Ánh mắt của cô chuyển qua sư phụ tôi, như muốn nói "Thế là chúng ta huề".
Che đậy hết sức có thể, tôi hỏi sư phụ tôi một câu.
"...Ưm, sư phụ. Schemhamphoras là cái gì thế ạ?"
"..."
Sau khi nghe câu hỏi đã làm tôi phân vân bấy lâu, không phải sư phụ tôi mà là người khác đáp lại.
"…Nó nằm trong 'truyền thống' – Kabbalah[14]. Đại khái, nó có nghĩa là một 'bộ tên' - Schemhamphoras." Vuốt lên bộ mặt râu ria của mình, Flue ngồi gần bên trả lời thay cho sư phụ tôi.
"Một bộ tên sao?"
"Tổng cộng có 72 thiên sứ. Với nguồn gốc là từ bộ Sách Xuất Hành[15]. Mấy câu văn trong Kinh Cựu Ước nói về lúc Moses tách đôi biển cả. Chính là 3 câu từ đoạn 19 đến đoạn 21 bằng tiếng Hebrew gốc, được tạo thành từ tổng cộng 72 chữ cái. Bằng cách ghép cả 3 chữ cái nằm trong 1 đoạn vào thành 1 từ, ta sẽ có được tên viết tắt của cả 72 thiên sứ. Mà, nghe thì có vẻ như chơi chữ, nhưng vốn dĩ Kabbalah từ lâu đã là Chơi Chữ Notarikon và Chơi Số Gematria rồi. Đoạn văn này là phần viết về kỳ tích vĩ đại nhất của Moses mà. Nó vẫn được đặc biệt xem xét theo rất nhiều ý nghĩa."
"...72 Thiên Sứ..."
Dường như ngần ấy thông tin là kiến thức chung của một pháp sư. Chỉ nghe đến từ Schemhamphoras, bọn họ đều hiểu cả.
"…Tổng lãnh thiên thần Michael xuất hiện trong nhiều truyền thuyết, nhưng Mihael thì rất hiếm. Để cho hai cái tên này chung một tập hợp thì chỉ có thể nghĩ tới Schemhamphoras mà thôi." Sư phụ tôi bổ sung bằng tiếng nói thì thầm mà chỉ có tôi mới nghe được.
"Chắc hẳn Thiên Sứ được hỏi đến trong di chúc của Ashborn đang được giấu ở đâu đó trong lâu đài này. Với việc dùng Schemhamphoras làm 'Tên Thiên Sứ' của chúng ta, thì rất có khả năng bản thân cái tên ấy sẽ trở thành một loại gợi ý nào đó. Các Thiên Sứ Schemhamphoras cũng liên quan nhiều đến 12 cung Hoàng Đạo và 72 Ác Quỷ của Vua Solomon nữa. Vì vốn là Kabbalah, nên nó hoàn toàn phù hợp để làm ám hiệu và câu đố đấy."
"...Chậc. Ông đã đi xa đến thế rồi cơ à?" Vừa gãi tai, Seigen cất tiếng.
Không biết liệu thật ra có phải là vị Yamabushi này cũng đã suy luận tương tự không nữa. Nhưng trước khi tôi nghĩ xa hơn, anh nói tiếp.
"Vậy thì, tại sao chúng ta không cùng chia sẻ tên Thiên Sứ của mình?"
Sự căng thẳng trong phòng dâng lên.
Như để lờ đi sự căng thẳng này, Seigen thản nhiên nghịch con ốc xà cừ đeo trước ngực mình với một nụ cười thân thiện.
"Trong tình hình hiện tại, chúng ta có quá ít gợi ý. Chẳng phải tốt hơn là nên công khai thông tin để cho mọi chuyện được tiến triển trôi chảy sao? Đằng nào thì 'Tên Thiên Sứ' cũng đã nằm trên bảng treo ở các phòng rồi, có giấu diếm thì cũng còn mấy ý nghĩa nữa đâu."
Sự im lặng tiếp sau đó là minh họa cho mâu thuẫn xuất hiện trong phòng. Tất nhiên, Seigen nói đúng. Mọi người muốn có thông tin, và những cái tên thì được in ngay trước cửa phòng - vì điều đó mà sư phụ tôi và tôi đã gặp phải rất nhiều rắc rối. Nó không phải điều mà ai cũng có thể mong giấu được. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ khác.
Cũng như thông tin về Schemhamphoras, nhưng chia sẻ thông tin một cách bất cẩn sẽ làm tăng khả năng quyền thừa kế bị cuỗm tay trên. Tất nhiên, cơ hội dành được nó cũng tăng theo, nhưng nếu so sánh mặt lợi và mặt hại, mặt nào lớn hơn?
Hiện tại, sư phụ tôi và tôi biết được hai cái tên Thiên Sứ.
Lord El-Melloi II có tên Mihael.
Luviagelita Edelfelt có tên Michael.
Vậy thì các pháp sư còn lại-
"-Thật đáng tiếc, nhưng tôi xin lui đây."
"A, Onii-sama."
Khi Heine đứng lên rồi rời khỏi, Rosalind cũng đi theo anh ta.
"Được, thế thôi nhỉ."
"Tôi cũng nghĩ, kết thân tới đây thôi là được rồi."
Flue và Luvia đều kết thúc phần ăn còn lại của mình và rút lui.
Che mặt và rền rĩ vì thất vọng trước sự từ chối của mọi người, rút cuộc Seigen cũng bỏ cuộc và rời bàn. Sau khi anh ta bỏ đi, thứ duy nhất còn vương lại trong phòng cùng với chúng tôi là sự lạnh lẽo thù địch mà bọn họ bỏ lại sau lưng, như thể chúng tôi bị vây quanh bởi bầy sói đang nhe răng đe dọa.
Một lần nữa, sư phụ tôi thở dài.
"Quả nhiên, chẳng có ai định cùng thân thiện cắt bánh chia nhau cả nhỉ."
"Ôi chà, thật là đáng tiếc đấy."
Hishiri, người duy nhất còn ở lại trong phòng ngoài chúng tôi, đang nở một nụ cười.
Có thể bởi vì là một người giám sát, cô không phải lo nghĩ trong lòng về mâu thuẫn này, mà nụ cười của cô trông như vừa mang vẻ trầm lặng của nhà hiền triết… vừa tỏ ra cực kỳ nham hiểm.
Khi đêm xuống, anh bắt đầu hành động.
Sau sự kiện xảy ra sáng hôm ấy, giống như hầu hết những pháp sư khác, anh yêu cầu mang bữa tối đến phòng mình. Đồng thời, anh dựng một kết giới bảo vệ quanh bốn góc phòng, giữ an toàn trước kẻ xâm nhập có thể có. Sau khi xác định rằng kết giới đã vận hành, anh hướng ra bên ngoài.
"...Onii-sama?"
Một cô bé gọi anh bằng giọng ngái ngủ từ trên giường, em dụi mắt.
"À, Rosalind. Anh làm em thức à?"
"…Ư."
Tiến lại gần cô bé đang ngất ngư, Heine vuốt lên mái tóc em ấy với một sự dịu dàng đến nỗi làm gợi lên một câu hỏi rằng anh có đang chạm vào em chút nào không. Nhìn đôi mắt nhắm lại của em trong sự thích thú, anh dành cho em một nụ cười nhẹ. Lấy lại quyết tâm của mình, anh rút tay về.
"Anh sẽ ra ngoài một chút. Vậy em ở lại một mình được chứ?"
"Em biết rồi ạ."
Mơ màng gật đầu, em e dè mở miệng.
"…Ưmm."
"Hử?"
Anh quay lại và nhìn em ấy như muốn kích lệ em nêu ra câu hỏi.
"Quả nhiên, anh sẽ chiến đấu với các pháp sư khác đúng không ạ? Cả với Lord El-Melloi II-sama đó nữa?"
Thế là anh cười một chút.
"Em thích người ấy rồi à?"
"...N-Nhưng nó không như với Onii-sama đâu ạ." Mím môi, Rosalind tránh ánh mắt của Heine.
Thấy vậy, anh không thể không nghĩ em ấy thật sự như một con chim nhỏ. Với chân tay của em trông rất mảnh dẻ, tựa như chúng có thể gãy trong tay ta, và chiếc áo đầm trắng tinh trông như cặp cánh non nớt. Em trông thật… mong manh.
Và đó là lý do mà anh yêu quý cô em gái nhỏ của mình hơn bất cứ thứ gì.
"Không sao đâu. Anh chỉ làm rõ những khúc mắc vừa xuất hiện thôi. Lord El-Melloi II cũng là một người khôn ngoan mà. Sẽ chưa có chuyện gì nguy hiểm ngay đâu."
Vẫn giữ sự bình tĩnh và dịu dàng đến phút cuối, Heine rời khỏi phòng.
Hành lang bằng đá yên ắng.
Heine quay mặt nhìn ra ngoài, nơi có ngọn gió đầu mùa Thu mang đến cái giá lạnh. Không chỉ về vấn đề nhiệt độ, có gì đó lẫn trong gió thấm vào tận trong tâm anh. Có thể nó là sự hiện diện của ma thuật.
"…A." Heine thầm thốt lên khi bắt đầu bước đi.
Lâu Đài Biệt Cư có kiến trúc hai tầng, kết cấu xây dựng méo mó của nó như thể dồn cả về một bên. Từ trên cao nhìn xuống, nó trông giống như Khúc Ngọc [Magatama] của phương Đông… có thể nói là giống một bào thai cuộn tròn. Như để bảo vệ nó, các bức tường trông giống cánh tay vươn ra ôm lấy nó, và các bức tường ấy tạo nên khu tiền viên rộng lớn.
Khi ra đến khu vườn nói trên, Heine chọn một hướng đi mới và bắt đầu cất bước.
Những bước đi của anh không hề do dự, không hề vô định.
Anh đang đi theo hướng được chỉ ra bởi tên Thiên Sứ của mình.
Chủ đề của cuộc nói chuyện bên bàn ăn lúc trước, Schemhamphoras - 72 vị Thiên Sứ được diễn giải thành một bộ tên, vốn cũng có thể được chuyển đổi thành 12 chòm sao Hoàng Đạo. Vốn dĩ 12 chòm sao Hoàng Đạo có thể chuyển đổi thành các phương vị với mốc chuẩn là Mặt Trời, nhưng nếu sử dụng 72 Thiên Sứ thì có thể xác định được chi tiết hơn nữa khi mà mỗi góc phương vị 5 độ ứng với một Thiên Sứ.
Nếu đã nắm được đến đó, những gì anh phải làm là đi theo hướng đó từ căn phòng của mình.
Tên Thiên Sứ của anh là Ariel. Liên quan đến biểu tượng Song Ngư [Pisces], nó là Thiên Sứ mang nghĩa "người làm sáng tỏ". Sự hiện diện của Thiên Sứ này không chỉ trong Kabbalah, mà còn ở những văn tự khác, như sử thi "Thiên Đường Đã Mất" của Milton. Nếu so sánh, Thiên Sứ này có thể được xem là một trong các Thiên Sứ khá nổi tiếng. Không chỉ giới hạn trong vị trí Thiên Sứ, cái tên còn xuất hiện trong tác phẩm "Giông Tố" của Shakespeare, là cái tên của tinh linh bão tố. Điều đó có nghĩa rằng ý nghĩa thật sự mà cái tên đại diện có thể là một trong các khả năng, nên nếu không có gợi ý của Lord El-Melloi về Schemhamphoras, việc đi đến kết luận để tìm hướng đi sẽ mất thời gian hơn một chút.
"Nhưng 'Tên Thiên Sứ' của căn phòng này là 'Michael' đấy chứ?"
Không may cho họ, Heine đã nghe được cuộc nói chuyện giữa Luviagelita và Lord El-Melloi II vào đêm hôm trước. Nếu như đã biết được 2 góc độ thì sau đó chỉ còn việc tìm cho ra giao điểm.
Bên ngoài trời có trăng tròn.
Không lâu sau, tán lá dày đặc của cây cối che khuất ánh trăng, và tiền viên chuyển sang khu rừng.
Heine không dừng lại. Không quan tâm đến cây cối và cành lá, anh đi thẳng một mạch xuyên qua gỗ cây. Y phục đặc biệt do nhà Istari cải tiến không gặp bất cứ trở ngại nào trước tác động thô bạo này.
Sau khi tiến thêm vài chục mét, Heine gặp phải một cơn nhảy mũi bất ngờ.
"Ở đây sao?"
Dừng lại, Heine ngẩng lên. Trước mặt anh là một cái bệ.
Chúng có được cho là Thiên Sứ hay không, anh không dám chắc. Rải rác quanh anh là một vài cái bệ, nứt vỡ theo nhiều kiểu khác nhau. Anh lờ mờ đoán được chúng từng là các bức tượng có hình dạng giống con người, nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn, làm cho anh không thể biết được gì hơn.
"Hừm."
Heine thò vào trong áo jacket và lấy ra lá thư mời có tên Thiên Sứ của mình, thứ đang phát sáng lờ mờ. Tương tự như phương pháp bí ẩn khiến cho cái tên Thiên Sứ xuất hiện vào ngày hôm kia, các ký tự mới bắt đầu hiện hình.
Thiên Sứ là con thú. Nó chăm chú nhìn bầu trời phương Tây, và nuốt lấy mặt trời.
"...E rằng đây chưa phải là điểm cuối nhỉ??" Heine thì thầm khi nhìn vào dòng chữ mới.
Đúng hơn thì đây mới là chặng đường đầu tiên. Tất nhiên bất cứ ai cũng có thể đi đến đây, anh thầm nhủ cùng một nụ cười.
Nhưng anh không nản chí.
Một con thú ở phía Tây… điều này giới hạn lại khá nhiều khả năng.
Trong số 72 Thiên Sứ Schemhamphoras, những cái tên Thiên Sứ được tạo ra chỉ là một phần của trò ghép chữ kết hợp với những Thiên Sứ thật sự hiện diện trong thần thoại. Tìm ra cái tên nào có mối liên hệ với con thú và phương Tây chắc chắn là không đủ. Anh sẽ phải kết hợp thông tin này với manh mối nào đó có thể tìm thấy trong lâu đài.
Heine thận trọng chạm xuống đất.
Khu tiền viên của lâu đài được chăm sóc rất chỉn chu, nhưng không thể nói điều tương tự đối với khu rừng. Giữa chỗ đất ẩm và cây cỏ, Heine có thể nhận thấy bằng mắt một thứ hơi lởm chởm.
"…Dấu chân ư?"
Cất lại thư mời về chỗ cũ, anh lấy ra một vật mới trong áo khoác.
Hiện giờ nằm trên bàn tay ngửa của anh là một thứ trông như đồ chơi của trẻ con, nó là một con chó nhỏ làm từ các ống kim loại nhỏ. Đặt vật mô phỏng hình con chó bằng kim loại vào bụi dương xỉ, anh thầm nói một từ.
- "
Convert ."
Trong phút chốc, dường như ngón tay của anh đang phát sáng. Tiếp theo đó, nó được trao cho sự sống.
Nhảy khỏi bàn tay của Heine, con vật bắt đầu đánh hơi quanh các cây cối như một con chó thật. Sản phẩm Hình Nhân Tự Động dạng người đã trở thành một dòng ma thuật lỗi thời, nhưng ngược lại, các lĩnh vực búp bê tự động khác chỉ mới bắt đầu phát triển.
Cụ thể, con chó bằng kim loại này là một phát minh đặc biệt. Nó là một trong các Lễ Khí của gia tộc Istari mà Heine mang theo bên mình. Nó là một sản phẩm giả kim thuật của nhà Istari, và có thể đánh hơi không chỉ mùi hương mà còn cả các bước sóng và dấu vết ma thuật còn lưu lại.
Một lúc sau, con chó kim loại xác định một hướng và bắt đầu đi tới, Heine bám theo sau.
Ra khỏi khu rừng, chàng trai một lần nữa hòa mình vào ánh trăng. Muôn vàn bông hoa đang nở trải dài trong khu tiền viên cùng chia sẻ ánh trăng với anh, đó có thể là một đêm tuyệt vời đối với các thi nhân và pháp sư. Tiếng bước chân khe khẽ trên cỏ là âm thanh duy nhất cho biết hướng đi của con chó giả kim và hiệp sĩ của nó.
Trước khi nhận ra, họ đã quay lại lâu đài. Băng ngang qua các bức tường lâu đài, Heine đi theo con chó cơ khí trong khi tâm trí anh thì để ở nơi khác.
…Mình đang bị theo dõi ư?
Một sự hiện diện nào đó mà Heine có thể cảm nhận được.
Nói chính xác hơn thì không phải tự Heine cảm nhận được điều đó. Đúng hơn thì nó là phản ứng của một vài viên ngọc, một Lễ Khí nữa mà Heine mang theo.
"Đặc biệt, 'Đá Sống' trong bí tàng của nhà Istari có thể sánh ngang với những vũ khí của các Anh Linh hạng yếu đấy, quả đúng là một tài năng lớn."
Anh nhớ lại lời Lord El-Melloi II. Heine tất nhiên đã chú ý lắng nghe từng từ được nói ra trong trận giao đấu ngắn ngủi với Tokitou Jiroubou Seigen.
…Điều tra kỹ thật.
Không phải nhà Istari giữ "Đá Sống" của họ làm bí mật, mà là các ghi chép bàn về nó rất ít và rời rạc. Biết tên của nó là một nhẽ, nhưng số lượng pháp sư biết nó là một dạng vũ khí thì có lẽ gần như bằng không. Cho dù Heine không muốn thừa nhận nhưng người đàn ông đó quả thật có lượng kiến thức tương xứng với vị trí Lord.
…Anh Linh, hử?
Lord El-Melloi II chắc chắn biết rất nhiều về Heine, nhưng Heine cũng đã tự mình tìm hiểu một số chuyện. Khoảng gần mười năm trước, anh ta đã tham gia một cuộc xung đột rất gay cấn giữa các pháp sư ở Viễn Đông. Điều này vẫn được bàn tán trong cộng đồng pháp sư đến tận ngày nay.
Cuộc Chiến Chén Thánh Lần Thứ Tư.
Giống như cái tên, nó là một cuộc chiến diễn ra ở Viễn Đông.
Bề ngoài, nó là một cuộc chiến giữa các Anh Linh. Chén Thánh - mặc dù hầu như chắc chắn là không phải Chén Thánh thật sự trong tín ngưỡng Cơ Đốc Giáo - triệu hồi một số Anh Linh để đánh lẫn nhau, và người cuối cùng trụ được sẽ được ban cho điều ước. Thậm chí trong những gì mà các pháp sư quan tâm đến, nó vẫn là một "nghi thức" phi lý.
Kể cả Heine cũng không biết được chi tiết cuộc chiến này hoặc làm sao mà nó được che giấu.
Nhưng Lord El-Melloi II - vào lúc ấy được chỉ được biết với cái tên Waver Velvet - là người sống sót duy nhất trong số các pháp sư đại biểu cho Tháp Đồng Hồ tham gia cuộc chiến, và không nghi ngờ gì rằng điều mà anh ta đã vượt qua được là một chiến trường tàn bạo nhất.
Anh ta không phải đối thủ mà mình có thể coi thường.
Vậy nên Heine quyết định.
Cho dù về mặt ma thuật, Heine có lợi thế hơn, nhưng anh chắc chắn người này có thứ vũ khí bí mật nào đó. Trong trường hợp ấy, nó có thể là thứ giá trị hơn hẳn so với ma thuật của chính nó.
Trên hết, Lord El-Melloi II không phải là đối thủ duy nhất. Cả Seigen, người mà anh đã đấu một lần, và Flue, người có biệt hiệu Kẻ Diệt Sư Phụ, đều là những đối thủ nặng ký. Không kể đến cô "Công Chúa" nhà Edelfelt và Caesarmund ẩn dật, kẻ mà không có từ thích hợp nào khác để diễn tả ngoài từ "quái vật".
Dẫu vậy, Heine phải có được gia tài này bằng mọi giá.
…Rosalind.
Khi gương mặt đứa em gái hiện ra trong lòng, anh trở nên chú ý hơn đến "thứ" khắc trên chân mình.
Khắc Ấn Ma Thuật.
Vốn dĩ, Heine không hề có ý định thừa hưởng Khắc Ấn Ma Thuật của nhà Istari. Bản tính cởi mở vui vẻ của chàng thanh niên không có cách nào tương thích được với mặt đen tối đương nhiên phải có của ma thuật. Đến giữa chừng, anh đã dứt bỏ nó và đến gõ cửa Giáo Hội Thánh Đường. Kết quả là, nhà Istari mất đi người thừa kế liền để mắt đến đứa con thứ hai, Rosalind - và một bi kịch đã xảy ra.
Cơ thể Rosalind đã phản ứng một cách dị thường đối với Khắc Ấn Ma Thuật.
Một phản ứng bất thường.
Khắc Ấn Ma Thuật tương tự như một cơ quan nội tạng. Không tính đến một số ngoại lệ hiếm hoi, nó chỉ có thể thích ứng với người cùng huyết thống, và thậm chí sau đó, cơ thể sẽ đào thải nó theo bản năng. Vì lý do đó, Khắc Ấn Ma Thuật được cấy ghép một phần nhỏ vào các khoảng thời gian cố định tới khi nào chủ thể mới đến tuổi dậy thì. Điều này, cộng thêm tác dụng của thuốc chống đào thải và sự hỗ trợ của một Điều Hưởng Sư là nguyên tắc cơ bản đối với việc làm cho Khắc Ấn Ma Thuật thích ứng với cơ thể mới.
Nhưng cha của Heine hẳn là đã thiếu kiên nhẫn.
Hoặc có thể bởi vì từ đầu, khả năng thích ứng của Rosalind đối với Khắc Ấn Ma Thuật đã khác thường.
Chính xác thì trường hợp của em gái anh khác với sự đào thải. Có lẽ nên gọi nó là sự Thích Ứng Thái Quá. Rosalind đã được cấy ghép Khắc Ấn Ma Thuật chỉ vỏn vẹn trong vòng một năm, và ban đầu có vẻ như không hề gây ra sự đào thải nào cả. Nhưng thực tế, hầu hết sinh lực của em đang bị Khắc Ấn Ma Thuật tước đoạt. Nhận được tin báo từ gia đình, Heine liền rũ bỏ cả những cấm đoán của Giáo Hội Thánh Đường để quay về, nhưng đã quá muộn cho việc tiếp nhận cấy ghép trở lại.
Khắc Ấn Ma Thuật từng được cấy ghép cho Rosalind đã bị biến chất.
Dù cơ thể Rosalind đang hồi phục ở chừng mực nào đó, nhưng lần này đến lượt sinh lực của Heine bị Khắc Ấn Ma Thuật hấp thụ từng chút một. Có lẽ vì sinh lực của Heine mạnh mẽ hơn, nên Khắc Ấn Ma Thuật đã ăn sâu một cách phức tạp từ chân cho đến bên trong cơ thể anh, và không còn có thể trích xuất ra được nữa. Chuẩn đoán của một người bạn cũ là Chú Thuật Y Sư nói rằng, có lẽ anh chỉ còn sống không đến vài năm nữa.
…Cái chết không là gì cả.
Ngược lại, sau khi anh chết, chắc hẳn Khắc Ấn Ma Thuật sẽ có thể rút ra được. Một kết cục dang dở thật đúng là đáng tiếc, nhưng đối với Pháp Sư thì cũng đã có nhiều tiền lệ như thế rồi.
Thế nhưng, anh không muốn để cho Rosalind chứng kiến cảnh anh trai của em vì mình mà phải chết.
Chỉ riêng điều đó là anh tuyệt đối không thể chịu đựng nổi.
Một cái nhếch miệng cay đắng trên mặt Heine.
Một Điều Hưởng Sư bình thường sẽ chẳng thể điều trị hay trích xuất Khắc Ấn Ma Thuật này được. Chính vì thế mà bí pháp của vị "Phục Nguyên Sư" Geryon Ashborn - người đã cống hiến hết mình cho Khắc Ấn Ma Thuật, là tuyệt đối cần thiết đối với Heine Istari.
Dòng suy nghĩ của Heine bị ngắt.
Khi anh đến lớp ngoài thứ ba trong khu vực của lâu đài, Heine bất chợt cảm thấy cơ thể anh trở nên căng thẳng.
Ngay tiếp theo đó, con chó đang đi trên đất phía trước anh bị phá tan thành từng mảnh.
Tất nhiên, một Lễ Khí do nhà Istari thiết kế không dễ dàng bị tan tành như thế. Như thể dẫm đạp con mồi bị hạ, ngay chính bóng tối trông như đang rung chuyển.
Trong cái bóng của lâu đài, nơi ánh trăng không chiếu tới, một thứ đen thăm thẳm đang rình mò. Heine không thể thấy rõ hình dáng của nó. Bằng sự im ắng và tĩnh lặng của chính tử thần, thứ chắc chắn đang ở đó có diện mạo không thể nào thấy được.
Trong bóng tối hiện lên chỉ có một cặp mắt đỏ máu.
Heine nghe thấy một tiếng nói.
"-Hỏi những cái tên Thiên Sứ."
Gọi giọng nói của nó là tiếng khàn thì không chính xác. Đúng hơn là giống như tiếng gió. Đáp lại giọng nói ấy, Heine trừng mắt.
"Nhà ngươi hỏi ta sao?"
Heine lập tức kìm nén sự thích thú của mình. Thứ ở trước mặt không tỏ vẻ gì là muốn trả lời câu hỏi của anh. Thấy vậy, và sau khi cân nhắc cẩn thận, Heine quyết định nói ra từ được trao cho mình từ lúc bắt đầu.
"Ariel."
Nó là cái tên viết trên thư mời của anh. Tên Thiên Sứ dành cho Heine. Đáp lại, con thú chỉ lặp lại câu hỏi của nó.
"-Hỏi những cái tên Thiên Sứ."
Quả nhiên là không phải à…?
Tất nhiên, anh đã lường trước chuyện này. Nếu chỉ nói ra "Tên Thiên Sứ" của bản thân là mọi chuyện rõ ràng, thì việc tạo ra cái luật lệ khó khăn rắc rối thế này thật vô nghĩa. Cho dù anh không biết đáp án vào lúc này, chắc phải có một đáp án thỏa mãn câu hỏi của vị chủ nhân quá cố của lâu đài này. Trong trường hợp ấy, nó chắc có liên quan đến danh sách những cái tên mà anh phát hiện ra lúc trước, nhưng vẫn còn hơn 10 cái tên trong danh sách ấy.
Thế thì sao mình không thử vận may và nói đại ra một trong những cái tên ấy?
Nhưng mà như thế-
"-Nếu không trả lời được, thì sẽ bị xé xác."
Cái bóng bắt đầu vươn cao.
Một cảm giác kỳ lạ, giống như đang xem một vật hai chiều vươn ra thành ba chiều.
Anh không thể thấy rõ, nhưng anh ít ra có thể biết từ hình dáng mới của nó, nó đang đứng bằng bốn chi. Thấy được sự đáng sợ của những cái vuốt mà nó vươn ra, không còn nghi ngờ gì nữa về chuyện đã xảy đến với con chó kim loại lúc nãy. Ngay cả xương thịt của con người cũng chẳng khác gì là giấy đối với chúng.
Phản ứng lại, Heine thầm niệm một câu thần chú.
Nhưng-
- "
Convert ."
Trước khi thần chú phát huy tác dụng, móng vuốt của con thú cắt xuyên qua anh.
Điều đó trông giống thế.
Thực tế, không hề có hiệu ứng nào lộ ra đối với bùa chú mà Heine vừa ếm. Nhưng dù vậy, bộ vuốt của con thú vung ra kèm theo một tiếng va đập vào vật rắn.
Nếu người ta nhìn vào nơi quần áo của Heine bị rách bươm, họ sẽ không thấy da người, mà lại là ánh sáng màu tím.
"Ma thuật mạnh ngang với những gì diễn ra trong cơ thể... Đó là nguyên lý đầu tiên mà ta được học trong nhà Istari đấy."
Giọng anh tràn đầy tự tin.
Đá Sống quý giá của nhà Istari được cất giữ sâu trong chính thân thể của Heine.
Lấp đầy chính thân thể mình bằng ma lực, anh có thể thay đổi cấu tạo của nó với một bùa chú duy nhất. Chỉ một trong các viên đá, theo tính toán của anh, chiếm khoảng bảy phần trăm thân thể anh. Qua việc kích hoạt chỉ một nửa số chúng, hiện tám mươi tư phần trăm cơ thể anh được bao phủ bởi áo giáp tím.
Theo thang độ cứng Mohs[16], nó là một bộ giáp cứng như hồng ngọc.
"Ngươi đã nói là xé xác nhỉ?"
Không để mất niềm kiêu hãnh của mình đến cùng, Heine nói.
Thậm chí gương mặt anh cũng biến đổi thành cùng chất liệu với phần còn lại của cơ thể. Bộ quần áo mà anh mặc trước đó vốn là vật dụng được tạo ra bởi giả kim thuật của Istari. Bộ đồ dễ dàng hòa lẫn với Đá Sống, giúp gia tăng độ bền. Hai ống tay áo đã biến thành giáp tay, và đôi giày biến thành giáp chân.
Heine hiện giờ đang khoác lên mình diện mạo của một hiệp sĩ vô cùng kiên cường.
"Thật không may, xem chừng những cái móng vuốt đó chẳng thể cắm vào cơ thể ta được."
Tiếng nói trong trẻo và oai vệ vọng trong đêm tối bên ngoài lâu đài. Ánh trăng trên bề mặt áo giáp ánh lên như tinh thể pha lê.
"Vậy, liệu ngươi có đỡ nổi cây thương của ta không đây?"
Cùng lúc với bộ giáp, một cây thương xuất hiện trong tay anh. Cây thương cũng làm từ Đá Sống. Sử dụng giả kim thuật, nó được cường hóa tới cực điểm, đầu thương cứng hơn cả kim cương. Nếu kết hợp với ngựa cơ khí của nhà Istari, Heine tự tin rằng đòn tấn công của mình có thể xuyên qua cả vỏ giáp của xe tăng.
Cây thương và bộ giáp ấy, bản thân chúng là định mệnh của Heine.
Một trang bị thậm chí có thể đối kháng với sát thủ của Giáo Hội Thánh Đường.
Cùng lúc đó, khả năng nhận diện của Heine về con thú trước mặt anh từ từ trở nên tệ hơn. Có thể do tác dụng của một ma thuật nào đó, anh vẫn không thể nhận diện chi tiết hơn, nhưng anh giờ đã biết con thú có hình dáng giống với một con sói. Như sói, hoặc hổ sống ở hoang dã... Không, nó còn lớn hơn thế, Heine nghĩ vậy.
Một con thú…
Heine nhớ tới thông tin về chòm sao lúc trước.
"Ở nước Pháp vào thế kỷ 18, cũng có một truyền thuyết về Quái thú Gévaudan nhỉ. Và nếu liên hệ đến lâu đài này, thì có phải nó là thánh thú canh giữ thiên đàng Cherubim... mà số ít thì gọi là Cherub đó không?"
Theo thông tin đại chúng, vào ngày Một tháng Sáu năm 1764, tại một tỉnh của Pháp có tên là Gévaudan, một con thú bí ẩn đã xuất hiện. Sau khi giết hơn một trăm người, mà bản chất thật sự của nó vẫn chưa được khám phá, nó trở thành một huyền thoại về
Vì liên quan đến Lâu Đài Biệt Cư, anh không thể không cảm thấy có mối liên hệ nào đó ở đây.
"..."
Heine thong thả thu cây thương lại. Dồn sức nặng tới trước, anh dần dần thu hẹp khoảng cách giữa hai bên. Khi vào đến một khoảng cách không có cơ may tránh đòn, anh đâm thương tới bất chấp nó là thứ gì.
Ngay sau đó, con thú hống lên.
Như được thức tỉnh bởi tiếng hống của con thú, không gian chung quanh Heine bỗng nhiên biến đổi.
"?!!"
Nóng.
Gió thổi quanh Heine nóng hơn cả lửa. Nhiệt lượng này, thậm chí áo giáp Đá Sống của anh cũng không thể so bì.
Không phải ma thuật, mà là đặc tính của con ma thú này sao!?
Lập tức, tay Heine bắt đầu cử động. Lấy một cái lọ từ bên trong ống tay đã biến thành giáp, và giải phóng thứ bên trong. Chúng lập tức bốc hơi, kết hợp với Od của chính Heine, và đem đến một kết quả hoàn toàn phi khoa học.
Với một âm thanh nhỏ, ngọn lửa trắng bắt đầu cuộn lại. Tuy nó trông như lửa mà Heine phóng ra trước mặt mình sẽ càng làm tăng thêm nhiệt thiêu đốt, nhưng điều xảy ra lại là ngược lại. Trong phút chốc, ngọn lửa biến thành một cột băng.
"Ngươi nghĩ giả kim thuật chỉ điều khiển mỗi khoáng thạch thôi à?"
Phía sau giáp mũ, Heine nở một nụ cười thỏa mãn.
"Dù là thể lỏng, thể khí hay thậm chí là những khái niệm không tồn tại trong thế giới này cũng đều thuộc phạm vi của giả kim thuật hết. Không, cái đó là đối với ta, và đây là lĩnh vực tâm đắc của ta đó."
Có một khái niệm về thuộc tính.
Trước đó, Lord El-Melloi II cũng đã từng nói đến, nhưng thuộc tính nhị trùng Lửa và Nước của Heine Istari thì hiếm có ngay cả trong thế giới pháp sư. Lửa với nước vẫn thường được cho là tương khắc nhau, nhưng cũng không phải là không thể cùng tồn tại. Dĩ nhiên thuộc tính nhị trùng là một tài năng hi hữu, nhưng nếu nghĩ đến nước đun sôi chẳng hạn thì hẳn là có thể hiểu được.
Có thể nói rằng, trái ngược với xăng, thứ chất lỏng hiện giờ đang liên hồi lấy đi nhiệt trong không khí thông qua hiện tượng lửa.
Tay Heine cử động, khiến cây thương của anh lóe sáng.
Lưỡi thương đâm vào bóng tối hóa thành bảy lưỡi. Đá Sống dung hợp không chỉ đơn giản là một áo giáp tùy biến. Nó cũng được dùng để tăng cường khả năng vật lý của anh, giúp anh có được năng lực vượt xa người thường.
Con thú phản ứng.
Sử dụng bộ vuốt, nó gạt được cây thương đầu tiên, nhưng bị trúng hai cây tiếp theo. Nhưng không hề nao núng, con thú nhảy lùi.
Nó bỏ chạy à?!
Biến bộ giáp sang dạng tối ưu để truy đuổi, Heine rượt theo.
Đúng như hình dạng của con thú, tốc độ của nó vượt trên mức Heine có thể đạt được. Khi chạy, nó bỗng dừng lại, hướng vào một trong những hành lang của lâu đài thông ra bên ngoài.
Tiếng chát chúa của kim loại gõ trên sàn đá vọng lại. Do hiện giờ là ban đêm, ánh sáng bên trong lâu đài đều đã tắt, và vì ánh trăng không chiếu vào trong được nên bên trong lâu đài tối hơn bên ngoài. Heine không còn lựa chọn nào ngoài đuổi theo con thú chỉ với dấu vết mà nó để lại trong hành lang.
"..."
Vì lý do gì đó, Heine không thể gạt bỏ sự khó chịu bắt đầu dâng lên trong ngực mình. Trước khi não của anh kịp hiểu ra điều gì, máu dồn dập trong mạch và da sởn lên cho thấy chúng hiểu được sự nghiêm trọng của vấn đề.
Không thể nào…!
Khi Heine tiếp tục cuộc săn đuổi, anh nhận ra một điều.
"Giả sử như", anh nghĩ.
Nghĩ về thông điệp xuất hiện trên thư mời trước lúc anh ra khỏi rừng.
Giả sử như, anh không phải người đầu tiên nhận được thông điệp này thì sao?
Giả sử như, anh là người thứ hai phát hiện ra nó trong hôm nay thì sao?
Giả sử như, trước đó đã có một người khác bị con thú đó hỏi thì sao?
-Đáp án của anh đến không lâu sau đó.
Ánh trăng tỏ trên nền trời.
Anh đang đứng trong khán phòng của lâu đài. Nơi đây vừa hay đối diện với đại sảnh mà mọi người đã tập trung vào lần gặp mặt đầu tiên. Trong lâu đài mang phong cách cổ xưa này, nơi không hề dành chỗ cho việc phô bày sự xa hoa lãng phí, đây là nơi mang lại sự im lặng trang nghiêm. Một chiếc đàn dương cầm và đàn hạc gần đó cho thấy âm nhạc hẳn đã từng đầy ắp căn phòng vào một thời điểm nào đó trong quá khứ.
Sự hiện diện của con thú biến mất.
"..."
Đôi mắt Heine nhìn chằm chằm vào trung tâm khán phòng. Lý do mà khán phòng này được xây dựng đương nhiên là để chứa bức tượng đứng giữa phòng.
Án giữa trung tâm khán phòng là một bức tượng Thiên Sứ khổng lồ, một tay cầm gươm, tay kia cầm một cán cân. Không nghi ngờ gì là theo cảm hứng về bức tượng Thiên Sứ Michael tại Mont Saint-Michel[17], nó là hình tượng mà Heine cực kỳ thân quen. Chiếc cân dùng để đong đếm tội lỗi của người chết, và thanh gươm dùng để xua đuổi
"A!!"
Hein bỗng nhận ra.
Mùi nồng lan trong không khí không cho anh dời mắt đi chỗ khác.
Có phải đây là sự báng bổ? Hoặc có lẽ, khi mà đây là lãnh địa của pháp sư, nó được xem là một sự ban phúc?
Như thể tuyên bố chiến thắng của niềm tin, Thiên Sứ chĩa thanh gươm thánh lên trời.
Và thanh gươm thánh ấy đang đâm xuyên qua-
Sư phụ tôi và tôi thức dậy khi trời chưa sáng. Ngay cả trong trạng thái ngái ngủ, thầy hình như hiểu ra tính nghiêm trọng của tình hình, vì thầy nhanh chóng chỉnh y phục bị rối và ra ngoài.
Cùng lúc bước vào khán phòng, chúng tôi cảm thấy một sự hiện diện.
Như thể thầy hết sức kìm chế cảm xúc, một giọng nói nhỏ lướt qua kẽ môi thầy.
"Adashino... Hishiri...!"
Lâu Đài Biệt Cư được xây dựng có phần giống hình chữ C. Một đầu là tiền sảnh, nơi mọi người đã tập trung trong lần gặp mặt đầu tiên. Đầu kia là khán phòng này. Ngoài các bích họa và tranh treo tường thì đàn dương cầm, đàn hạc, các cây cột và kể cả các vật dụng nhỏ ở đây đều được thiết kế theo chủ đề Thiên Sứ giống như phần còn lại của lâu đài, một cách thể hiện mạnh mẽ sự lập dị của người chủ quá cố.
Nhưng riêng lần này, tôi không để tâm đến chuyện đó.
Bởi vì cô ta ở đây, giữa căn phòng này.
Kimono ống tay dài của cô quá đẹp, trông như được làm chỉ cho khoảnh khắc này. Trang phục phương Đông đem lại vẻ bí ẩn nhiều hơn trước khi nó ngả lên bức tượng Thiên Sứ. Thậm chí máu đang chảy dọc theo thanh gươm của Thiên Sứ không ảnh hưởng đến vẻ đẹp ấy. Phải nói rằng, dù giờ máu đang khô lại xung quanh cô, vẻ đẹp của người phụ nữ bị xiên trông như thứ duy nhất chưa bị thay đổi.
"...!"
Tôi bất giác che miệng. Bởi vì ngoài mùi máu quá nồng nặc đến nghẹt thở, tôi còn nhận thấy một điều khác.
Trên gương mặt xinh đẹp của cô ta, mang vẻ nhợt nhạt, mềm mại, khác lạ, cái đầu ngửa ra sau, cả hai con mắt của cô đã bị móc ra.
"Đây là…!"
Sư phụ tôi ngần ngừ sau một vài từ. Một lúc sau, thầy lấy dũng khí và nói tiếp.
"Heine-san, anh có thể hạ cô ta xuống được chứ?"
Heine liếc nhìn quanh căn phòng. Trước khi anh nhận ra, tất cả các pháp sư được mời đến lâu đài đã tề tựu.
Seigen và Flue, Luvia và tùy tùng của cô, cũng như Orlocke và cậu bé đẩy xe lăn cho ông đều hiện diện. Như dự đoán, không ai có thể làm ngơ một sự kiện đến mức độ này. Như thể khi làm một pháp sư, họ đều quen với tình huống như thế, bất chấp không khí căng thẳng trong phòng, không ai trong số những người ở đây mất bình tĩnh. Ngoại lệ duy nhất có lẽ là Rosalind vô cùng bất ổn, nhưng ngay cả em ấy hình như cũng trụ được khi mà em có anh trai mình trợ giúp.
"Tôi hiểu rồi."
Thấy không ai phản đối, Heine giơ một tay về phía bức tượng. Từ tay Heine, một sợi kim loại mỏng như sợi tóc vươn ra, lướt qua thanh gươm của bức tượng, và nhẹ nhàng hạ thân thể Hishiri vào vòng tay anh. Không quan tâm đến máu thấm lên áo mình, Heine nhẹ nhàng đặt cô xuống sàn nhà. Sư phụ tôi tiến lại và cúi xuống cạnh bên cô.
"Xin thất lễ."
Nói xong, thầy đưa tay chạm vào cô. Đưa ống tay áo kimono sang bên, thầy nhanh chóng kiểm tra thân thể cô. Như một bác sĩ lành nghề, thầy xem xét các vết thương bên ngoài với một sự lạnh lùng.
"Heine có nói rằng nó là một loại quái thú. Chắc hẳn đôi mắt của cô ấy bị moi ra bởi thứ tương tự như một cái móng vuốt lớn. Trên hết là cô có một vết cắt lớn ở giữa lưng. Chắc hẳn đó là nơi có Khắc Ấn Ma Thuật. Tôi cho rằng một pháp sư cao cường không thể chết nếu không xảy ra việc như thế."
Tất nhiên mọi Khắc Ấn Ma Thuật đều độc nhất, nhưng chúng vẫn có một chức năng chung. Dù Khắc Ấn Ma Thuật của gia tộc lâu đời phát triển thành thứ tương tự như lời nguyền, chính Khắc Ấn giữ cho họ sống, nên mọi thứ pháp sư có đều rót vào nó. Với loại người xa cách với nhân loại như pháp sư, không có gì đảm bảo sẽ phát hiện được từ cái chết của họ. Có thể nói, mỗi pháp sư trong gia tộc đều chỉ hơn một chút so với những vật dùng để chứa Khắc Ấn Ma Thuật.
Một phong thư dính máu nhẹ nhàng rơi khỏi ống tay áo kimono của cô. Sư phụ tôi nhặt cái phong thư đem lại một ấn tượng giống với thứ được trao cho chúng tôi, và lập tức xem xét nội dung của nó.
"Ồ? Xem ra cả cô ta cũng có một cái 'Tên Thiên Sứ'. Đây là…"
Nói đến đó, thầy ngừng lại.
Hachasiah.
Nhìn vào một từ được in trên lá thư ấy, gương mặt của sư phụ tôi nhanh chóng trở nên cứng đơ.
"Sư phụ?"
Đặt một ngón tay dính máu lên cằm mình, sư phụ tôi im lặng ngẫm nghĩ. Cuối cùng, thầy nói tiếp với giọng run rẩy.
"…Có lẽ tôi đã hiểu lầm."
"Hiểu lầm?"
Lờ đi câu nói của tôi, thầy không trả lời ngay. Bằng những ngón tay run rẩy, thầy lại lần nữa khám nghiệm thân thể bị sát hại tàn nhẫn của Hishiri. Thầy xăm soi mái tóc của cô, giờ đã bết máu khô, và kiểm tra lại vùng mắt bị móc ra của cô.
"…'Tên Thiên Sứ' không phải là gợi ý về di sản thừa kế rồi."
Nghe thế, tất cả các pháp sư trong phòng đều quay sang nhìn thầy. Người lên tiếng đầu tiên là Orlocke ngồi xe lăn.
"…Này Lord. Vậy ngươi nói xem, nó là cái gì nào?"
"Đó chẳng phải là bí ẩn gì cả."
Gốc của từ "bí ẩn" là từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa là "đóng lại". "Đóng lại", "che giấu", "tự hoàn thiện", tóm lại, một "bí ẩn" mang ý nghĩ đặc biệt vì nó là một bí ẩn.
Bản thân các bí mật như là bánh mì và bơ đối với ma thuật. Một số ít có thể đi bất kỳ con đường ma thuật riêng rẽ, phần lớn có thể được hoàn thiện. Trước khi đến Lâu Đài Biệt Cư, sư phụ tôi đã nói rằng một khái niệm càng nổi tiếng thì càng bền vững, nhưng điều này thì ngược lại - một chân lý mà những người tự gọi mình là pháp sư đều biết.
Cho nên, khi nghe thông điệp từ chủ nhân quá cố của lâu đài, họ đều nghĩ đến mặt giá trị của nó. Trong thế giới của họ, chúng đã trở thành một loại sở thích, đồng thời chấp nhận nó như một nghi thức linh thiêng nảy sinh ra sự vô giá của gia tài ấy.
Nhưng mà.
Giả sử nó vốn dĩ chẳng phải là bí ẩn thì sao?
"Tôi từng nói 72 Thiên Sứ trong Schemhamphoras có thể hoán chuyển thành 12 Cung Hoàng Đạo, nhưng chúng còn tương đương với cơ thể con người nữa. Đại Vũ Trụ [Macrocosm] và Tiểu Vũ Trụ [Microcosm] luôn luôn đối xứng nhau, chắc hẳn tôi không cần giải thích về chuyện đó đâu nhỉ."
Khi thầy nói, các pháp sư khác trong phòng tỏ vẻ căng thẳng.
Họ đã hiểu được điều mà sư phụ tôi muốn nói.
"Hachasiah là Thiên Sứ chi phối cung Bạch Dương [Aries]. Đại khái, cung Bạch Dương bảo hộ phần đầu của cơ thể người…"
Nói đến đó, sư phụ tôi ngừng một chút. Thầy nói nhỏ lại, như để bớt rầy rà…
"…Đặc biệt, nếu giới hạn với Hachasiah, thì nó mang ý nghĩa là nhãn cầu."
Theo phản xạ, tôi thốt lên một tiếng.
Lời công bố mà Hishiri đưa ra ở tiền sảnh gợi lại trong đầu tôi.
"Những người được hỏi và không thể trả lời, thì sẽ bị tước bỏ Thiên Sứ bằng mọi cách."
Có phải đây là ý nghĩa của việc bị tước bỏ Thiên Sứ?
Nó không phải là câu đố hay phép ẩn dụ. Nó là một thông điệp đơn giản và trực tiếp gửi đến những pháp sư tìm kiếm gia sản của ông ta. "Nếu không thể trả lời được thì hiển nhiên ngươi sẽ bị tước bỏ bộ phận đó, nên hãy chuẩn bị tinh thần đi." Ý nghĩa của nó chỉ có thế ư?
"Nói cách khác, 'Tên Thiên Sứ' là thư báo trước về cách chúng ta sẽ bị giết, giống như thế này đây."
Tiếng nói của thầy vang vọng khắp phòng. Nó cứ như là một bùa chú. Tôi cảm thấy ảo ảnh tất cả các Thiên Sứ bao quanh căn phòng lớn này bỗng biến đổi từ sinh thể chính nghĩa sang những sát thủ chuyên nghiệp muốn giết chúng tôi.
Nhưng, sau khi nói thế, sư phụ tôi gục đầu như hổ thẹn.
"Sư phụ?"
"…Tồi tệ rồi đây." Thầy thì thầm.
Dường như tiếng nói của tôi không chạm được đến tai thầy. Đó là tình trạng khi thầy chìm đắm trong suy nghĩ.
"Sư phụ?"
Sau khi gọi lần nữa, rút cuộc thầy cũng quay sang tôi.
Nỗi buồn trên mặt thầy thậm chí còn hơn cả lúc vừa tìm ra ý nghĩa thật sự của những cái tên Thiên Sứ.
"…Đây chính là điều tồi tệ nhất."
"Điều gì cơ ạ?"
"Là cái kết quả này ấy. Dù hung thủ là ai thì việc sắp xếp một mưu đồ thế này hẳn là phải có mục đích."
Và rồi, thầy thêm vào.
"Vì trong số những người đã quy tụ ở Lâu Đài Biệt Cư thì chỉ có duy nhất Adashino Hishiri là biết về bí pháp của Ashborn, và cô ta lại là người không cần có được nó."
Thầy liếc ra sau lưng.
Chỉ bằng cái liếc mắt, hàm ý của thầy trở nên rõ ràng. Ngoài Rosalind vẫn bám lấy Heine, không một ai trong số các pháp sư trong phòng này tỏ vẻ sợ hãi. Đúng hơn là, không khí trở nên… phấn khích.
Họ cuối cùng cũng có được bằng chứng cho thấy quả thật có điều gì đó được che giấu ở đây. Để đạt được nó, không cần phải ngần ngại với phương pháp giết đối thủ cạnh tranh. Và vì đã thấy chết chóc nên cũng chẳng có lý do gì để lảng tránh nó.
"Ha ha! Thế tức là con thú đã cẩn thận xiên cô ta lên đó sau khi lột bỏ Khắc Ấn Ma Thuật và móc mắt chắc? Quá cẩn thận mà, đúng là chuyện nực cười đấy."
"Ông Flueger. Ông đang bảo là tôi nói dối đấy à?"
"Không không, tôi tin vào lời Heine Nii-san nói."
"Vậy thì ý ngươi bảo là vong hồn của Geryon Ashborn bạn ta đang vảng vất đâu đó trong lâu đài này ấy hả?"
"Ai chà. Lão già Caesarmund định nói rằng hung thủ nằm trong số chúng ta đây mà."
Các tiếng nói của pháp sư vang lên.
Tiếng nói vang vọng khắp căn phòng, đầy sự kiêu ngạo, thù địch và hiếu kỳ, chúng hòa vào nhau cứ như thể tiếng cười rì rầm của một bầy yêu ma Wild Hunt[18] trong đêm giông tố vậy.
Phải, đúng vậy.
Như sư phụ tôi đã nói, đây không còn có thể là trò chơi săn tìm kho báu đơn thuần nữa rồi.
Nhưng ấn tượng của tôi hơi khác một chút so với của sư phụ tôi. Vụ việc này không có nghĩ là không còn bí ẩn cần giải đáp. Đúng hơn thì, bất kể nó có là câu đố về chuyện thừa kế hay bí ẩn về hung thủ, vẫn còn đó một bí ẩn tại tâm điểm của vụ án. Thực tế, cảm giác về sự hiện hữu của nó mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Điều mà chúng tôi lầm lẫn là bản chất của câu đố.
Đó chẳng phải là một điều bí ẩn để cho ai đó giải đáp.
Mà là một mạch dẫn để mời gọi các pháp sư, khơi gợi đến cái chết và tai họa, hệt như mật ngọt vậy. Có được điều bí ẩn làm động lực thúc đẩy, câu chuyện liền khôi phục lại hình thái vốn dĩ ban đầu, và bức màn đã mở ra.
Sự mở màn của tấm thảm kịch Grand Guignol.[19]
Chương 3[]
Sau khi đóng cánh cửa phòng riêng, sư phụ tôi gần như nằm vật ra ghế sofa cùng với một tiếng thở dài não nề. Cứ như thể thầy đang cố gắng tống ra cái gánh nặng trong tâm trí của mình bằng hơi thở này.
Lần đầu tiên, thầy dường như quên mất thói quen hút xì gà và hoàn toàn thả mình trên sofa. Như vậy đấy, như thể đang chìm xuống, tâm trạng của thầy mau chóng trở nên u ám và mỏi mệt.
Tôi nhanh tay đi rót một ly nước và đặt nó trên cái bàn bên cạnh thầy, và thầy uống nó ừng ực. Vì uống vội, thầy hình như không để ý mấy đến chỗ nước đang chảy xuống cằm, áo sơ mi và mái tóc dài của mình.
"...Có rượu không nhỉ?"
"Có whiskey để sẵn trong phòng đấy ạ."
"Thế thì tốt."
Bị hối thúc bởi cái giọng nghèn nghẹn của thầy, tôi lấy chai rượu Scotch từ kệ và rót vào ly. Độ cồn của nó khá cao, theo như tôi nhận thấy từ mùi của nó lúc rót rượu. Tôi dám chắc rằng mục đích sử dụng của nó là để pha chế cùng với nước hoặc với một loại thức uống khác, nhưng sư phụ tôi vẫn cầm lấy cái ly như thể nghĩ rằng thầy cần phải cướp lấy nó từ tôi. Cứ thế, thầy ngửa đầu ra sau và đưa ly rượu lên miệng.
Trong khi nhìn thầy làm vậy, tôi lên tiếng.
"...Chúng ta không điều tra hiện trường thêm chút nào mà rời đi, làm như vậy có ổn không ạ?"
"Thì bởi vì trong hoàn cảnh đó, ai mà biết khi nào thì một cuộc tàn sát lẫn nhau sẽ xảy ra chứ."
Thầy dùng lưng bàn tay của mình để lau cằm. Sau đó thầy tiếp tục nốc hết phần rượu whiskey còn lại trong ly. Có lẽ thầy chẳng biết mùi vị nó thế nào. Mà đó chỉ là một hành động vì muốn quên đi tất cả mọi thứ. Tôi thoáng nghĩ rằng liệu chúng tôi nên tạ ơn là, ít nhất thì cái ly và chai rượu này không có biểu tượng thiên sứ. Khi thầy uống xong, tôi lại hỏi.
"Liệu những người khác có nghĩ rằng bản thân họ sẽ bị giết không ạ? Bởi vì cả vị pháp sư ở Khoa Pháp Chính kia cũng đã bị giết rồi mà."
"Đó chính là nghiệp chướng của pháp sư đấy." Sư phụ tôi bặm môi như đang bực bội.
"Trong Tháp Đồng Hồ thậm chí còn có xu hướng khuyến khích cuộc chiến giữa các pháp sư bằng việc gọt giũa kỹ năng của nhau cơ mà. Nếu không làm thế, thì sẽ chẳng có cơ hội sớm được chiêm ngưỡng ma thuật của kẻ khác. Người nào càng cao cấp thì càng ít mong muốn cái hoàn cảnh như thế, chuyện là vậy đấy. Dĩ nhiên, bởi vì Khoa Pháp Chính coi trọng trật tự của Tháp Đồng Hồ hơn là những điều thần bí, nên bản thân họ hẳn cũng chẳng coi đó là một sai lầm đâu. Ha ha, cũng đâu thể gọi họ là cảnh sát gì đó được."
"..."
"Hầu như mọi người ai cũng nghĩ thế này: 'Dẫu cho có một trận sống mái đi nữa, thì ta cũng sẽ là người duy nhất sống sót'."
Tôi từng nghe nói từ hồi ở quê mình rằng có những cuộc xung đột mà số người đánh nhau lên đến hàng nghìn. Rằng nếu để mặc người ta muốn làm gì cũng được, thì thứ phát triển chẳng là gì khác ngoài một địa ngục chết chóc. Để ngăn chặn việc đó, xã hội và trật tự được lập ra. Có vẻ như Khoa Pháp Chính đã nhận lấy về mình vai trò này trong thế giới pháp sư.
-Nhưng, điều gì sẽ xảy ra khi trật tự đó mất đi?
Đó chính xác là tình thế trong Adra, Lâu Đài Biệt Cư này đây.
Rồi thì các pháp sư tập trung ở đây sẽ bắt đầu tự diệt lẫn nhau. Có phải cõi A-tu-la[20] được nhắc đến trong Phật Giáo là như thế này? Hoặc có thể đúng hơn là giống như những bữa tiệc và trận so tài lặp lại vô tận ở Valhalla[21]?
"..."
Chỉ tưởng tượng ra điều đó cũng khiến tôi thấy lạnh sống lưng. Dù nghĩ theo hướng nào thì chúng tôi cũng hoàn toàn nằm ở thế bất lợi. Như thể chúng tôi là con mồi sống nằm trên mạng nhện. Cho dù chúng tôi vật lộn ra sao thì sợi tơ nhện chỉ càng trói buộc chúng tôi chặt thêm thôi. Tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm là chờ cho đến khi những chiếc răng nanh có độc ấy đâm vào cổ mình.
Vì vậy, tôi nói ra những gì chợt nghĩ đến trong đầu.
"...Thế bây giờ chúng ta có bỏ trốn không ạ?"
"......"
Trong một lúc lâu, sư phụ tôi vẫn im lặng. Cầm chặt cái ly trong tay, khuôn mặt của thầy tỏ vẻ phức tạp hơn nhiều so với khi nhìn thấy xác chết của Hishiri lúc nãy.
Hồi lâu sau,
"...Không."
Thầy yếu ớt lắc đầu.
"Vì sao thế ạ? Chính sư phụ từng nói là nếu tự mình đấu với bất cứ ai trong số họ, thầy cũng sẽ chết cơ mà?"
"Phải. Nếu bắt đầu một trận quyết đấu nào đó thì người chết trước tiên chắc chắn sẽ là ta. Cho dù đã nốc rượu vào thì nó vẫn cứ đáng sợ, đáng sợ đến mức nếu lỡ ta mất tập trung thì cả đến đầu gối cũng phá lên cười đấy. Lúc này mà có dây thừng ở đây là ta sẽ muốn chạy trốn bằng cách thắt cổ mình ấy chứ." Với một nụ cười cay đắng, thầy vỗ nhẹ lên đầu gối.
Ngay cả nụ cười đó cũng là trung thực.
"Nhưng dù vậy thì ta cũng không thể bỏ về."
"...Vì sao thế ạ?"
Tôi lại hỏi một lần nữa. Để trả lời câu hỏi của tôi, sư phụ tôi rút ra lá thư mời từ trong áo khoác của mình.
"Dường như Geryon Ashborn đã bỏ ra khá nhiều công sức để điều tra về chúng ta." Nói xong, đôi môi của thầy nặn ra một nụ cười chua chát nữa.
Đây chỉ mới là lần thứ hai tôi nhìn thấy thầy mang một vẻ mặt như vậy. Một vẻ mặt ỉu xìu, xấu xí và khó coi.
Nhìn thấy vẻ mặt đó, tôi không thể nói được gì nữa.
Vừa nheo mắt nhìn lá thư mời, sư phụ tôi vừa nói.
"Ta đang có việc cần phải làm."
Không phải là điều thầy muốn làm. Mà là điều thầy cần phải làm. Tôi thì dĩ nhiên là không rơi vào hai trường hợp đó. Mà tôi cũng chẳng hiểu hai điều này có gì khác nhau.
Nhưng giọng của sư phụ tôi mang một vẻ cương quyết mà dường như ngay đến Chúa cũng không thay đổi được. Thầy đang hướng cuộc đời mình về đâu? Đối với tôi, một người đa phần là sống tại quê nhà của mình - trong một nghĩa trang xưa cũ - thì thế giới đó dường như quá xa vời. Mặc dù ở ngay gần bên thầy, thế nhưng tôi lại không hiểu gì về thầy cả.
Nhưng, trong lúc tôi đang không biết phải hiểu từ đâu, sư phụ nói với tôi.
"Tiểu thư. Xin lỗi vì đã kéo em vào vụ này, nhưng ta cũng có lý do để không thể rút lui được."
"Ha ha!"
Từ bên tay phải của tôi, một tiếng nói vang lên. Add đang cười.
"Tên pháp sư nhát cáy này mà cũng thể hiện chí khí nam nhi quá đấy nhỉ! Dù chắc chắn là ông đã tính đến chuyện chuồn thật lẹ khi tình hình trở nên tồi tệ mà!"
"Con át chủ bài của các-em về cơ bản cũng chỉ là hàng dùng một lần. Hơn nữa, chẳng biết liệu có thể thỏa mãn đủ các điều kiện cần thiết cho nó không nữa."
Sư phụ tôi hình như muốn nhấn mạnh câu nói của mình. Tuy hơi thở của thầy khi nói đầy mùi rượu, nhưng đôi mắt thầy tỏ ra cực kỳ nghiêm túc.
"Cho dù ta có lý do của mình, nhưng cũng chẳng thể cưỡng ép người khác được. Nếu như em bỏ đi khỏi đây, thì ta không có quyền ngăn cản."
"..."
Tôi không thể nhìn vào đôi mắt của thầy. Bất kể điều gì cần có để đáp lại ánh mắt ngước lên ấy thì lại đều không có trong tôi.
Vì vậy, tôi tránh ánh mắt của thầy. Khi làm thế, tôi hỏi thầy một câu hỏi khác.
"Câu này trước đây em đã hỏi rồi nhưng mà, tài sản thừa kế ở nơi này thật sự cần thiết đối với sư phụ phải không ạ?"
"Phải." Thầy gật đầu.
Thầy mang một biểu cảm giống như lần thầy đến đón tôi tại quê nhà của tôi, giống như khi thầy quyết định đưa tôi, một người sống kín đáo, đến tận Luân Đôn. Vì lý do nào đó, tôi buông một tiếng thở dài. Tôi có thể cảm thấy trong lòng mình một cảm xúc mà tôi không biết gọi nó là gì, nó đẩy tôi vào sự liều lĩnh.
"...Nếu đã vậy, thì em sẽ đi cùng thầy thêm chút nữa."
"…Xin lỗi em."
Nhìn sư phụ tôi cúi đầu thật thấp với lòng cảm kích, tôi cảm thấy mặt mình đanh lại.
Không.
Có lẽ không chỉ là cảm giác đanh cứng. Không hiểu nổi cảm xúc của bản thân, tôi đưa những ngón tay của mình lên môi. Cũng thật không ngờ, như thể điều này là hoàn toàn tự nhiên, gương mặt của tôi đang nở nụ cười tươi...
"Chà chà."
Một tiếng nói trầm vang lên từ chỗ cánh cửa phòng đang mở.
Gương mặt của sư phụ tôi đanh lại và ngay lập tức quay về phía vị khách mới đến, và kể cả tôi cũng ngưng thở một cách vô thức.
"Quan hệ giữa hai thầy trò tốt quá nhỉ. Hay lắm hay lắm."
Tiếng rít của bánh xe cọ trên sàn vang khắp căn phòng.
Được đẩy bởi người trợ lý trẻ, chiếc xe lăn của Orlocke Caesarmund hiện ra từ trong bóng tối và tiến vào phòng. Khuôn mặt của ông ta, bị bao phủ bởi những nếp nhăn, không hiểu vì sao lại làm liên tưởng đến một con sâu bướm, một nụ cười dị thường đang đeo trên khuôn mặt ấy.
Trong căn phòng này, với đầy những hình ảnh thiên sứ, ông già có vẻ lại càng không tương xứng hơn trước. Cơ thể hao gầy của ông, trông như chẳng còn gì ngoài da và xương, lạ thay lại tỏa ra sức sống. Trong không gian sinh ra bởi Lâu đài Biệt Cư, dường như chỉ riêng ông là đứng về phía đối nghịch với cách thức tồn tại của nó. Thân thể già nua nhỏ bé của ông chứa đầy thứ gì đó không thể xác định được, thứ gì đó đủ để sánh với bản thân Lâu Đài Biệt Cư. Cũng không kém phần khó chịu, đây kiểu như một loại trực giác phát sinh từ sự hiện diện của ông.
"...Tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ngài Orlocke?"
Sư phụ tôi cố gắng hết sức để nói với giọng bình thản.
Bên tay phải của tôi, Add vội vàng ẩn nấp càng kỹ càng tốt. Có khả năng là ông già đã nghe thấy tiếng của "ông" trước đó, nhưng cho dù đúng vậy thì không có lý do gì để "ông" phải tự lộ diện cả.
Ông già cười khan.
"Không, thứ lỗi cho ta vì đã vào phòng mà không xin phép. Do cửa phòng không khóa, nên mới xảy ra việc này."
"…Xin, mời vào." Sư phụ tôi gật đầu với vẻ chua chát.
Tất nhiên, câu nói "nên mới xảy ra việc này" là một lời nói dối trắng trợn. Chỉ mới một lúc trước, ông đã hoàn toàn che giấu sự hiện diện của mình. Tất nhiên, sư phụ tôi và tôi đã ở ngay sát bờ vực do sự cố lúc nãy, nhưng điều đó chỉ khiến cho tất cả chúng tôi thêm phần cảnh giác hơn.
Ánh mắt của Orlocke liếc đến cái ly mà sư phụ tôi đang cầm.
"Chà, chẳng phải cậu đang thưởng thức món gì đó thú vị đây sao? Có lẽ ta cũng sẽ uống một chút."
Từ tay vịn của chiếc xe lăn của ông, thứ gì đó phát ra ánh sáng nhạt trong không khí phía trước ông.
Chúng là những con bươm bướm.
Papilio Magia.
Nếu tôi nhớ chính xác thì, đó là loại ma thuật mà ông ta sử dụng. Ngược lại với vẻ ngoài của ông, những con bướm ánh sáng xinh đẹp này đến lấy chai rượu whiskey khỏi tay tôi, lấy một cái ly trên kệ, và rót rượu vào ly cho ông ta.
Màn trình diễn của ông khiến chúng tôi không nói nên lời. Thậm chí trước khi ông yêu cầu phụ tá của mình giúp đỡ, ông còn sử dụng ma thuật để làm việc đó cho mình. Qua cung cách mà ông thản nhiên đi vào từ cánh cửa lẽ ra đã bị khóa, và cái cách mà ông thản nhiên biểu diễn ma thuật của mình cho chúng tôi thấy, tôi bắt đầu hiểu ra ấn tượng của tôi về ông già này đã sai lệch thế nào.
"À. Quả nhiên là Geryon có rượu ngon thật đấy. Bởi vì dù đã tích trữ từ lâu, nhưng lúc sinh thời ông ấy chẳng mấy khi đem ra đãi khách mà."
Mím môi lại, Orlocke nhắm mắt và trông như đang thưởng thức trọn vẹn hương vị của rượu. Cứ như là ông ta đang thư giãn ở nhà mình.
Như thể không chờ đợi được thêm nữa, sư phụ tôi cuối cùng cũng lên tiếng.
"Ông có việc gì đây?"
"À. Mới rồi ta đã được nghe rất nhiều kiến thức từ cậu. Ta nghĩ là mình cần phải nói một lời cảm tạ."
"...Mấy cái hiểu biết lúc nãy đâu có giá trị gì to tát đối với một người già như ông chứ."
"Bản thân kiến thức thì không." Thừa nhận quan điểm của sư phụ tôi, ông ta chậm rãi gật đầu. "Nhưng mà đặc trưng riêng của cậu thì có hơi khác đấy. Bản thân cậu cũng biết mà phải không? Sự khiêm tốn thừa thãi chỉ làm tăng thêm những kẻ địch mà thôi."
"...Cỡ như tôi thì có loại đặc tính gì chứ?"
"Là quan điểm của cậu đấy." Ông nói.
Đôi mắt của ông ta, vốn đã khuất sau những nếp nhăn, đang nheo lại hơn nữa. Nhìn thẳng trực tiếp vào sư phụ tôi, ông nói nhỏ nhẹ.
"Mấy thứ ma thuật hiện đại toàn là một đống tạp nhạp. Chẳng có hiểu biết gì về lịch sử, cũng như cái vực thẳm ma thuật đã hòa lẫn vào nhau một cách phức tạp cả. Nó chỉ đơn thuần ngấu nghiến lấy cái thần bí và vá víu các bộ phận có vẻ tương hợp tốt với nhau mà thôi. Thật chẳng đáng để những pháp sư chính thống như bọn ta cần phải nhìn lại. Ta nghĩ vậy đó."
Dựa theo các bài giảng của sư phụ tôi, dạng ma thuật được xem là phổ biến trong thời gian gần đây nhất là Ma Thuật Hỗn Nguyên [Chaos Magick]. Đó là một trường phái ma thuật xuất phát từ địa hạt Tây Yorkshire vào những năm 1970. Nó không chỉ giới hạn trong lĩnh vực ma thuật, mà còn liên quan đến Triết Học, Lý Thuyết Khoa Học, và thậm chí cả Khoa học Viễn Tưởng. Mục đích của nó là cho phép pháp sư thâm nhập vào "thế giới bên kia", nhằm đem đến mọi loại hiện tượng siêu nhiên.
Nói cách khác, là "hỗn loạn".
Và phương pháp ngẫu nhiên này, theo lời của sư phụ tôi, là "hiện đại nhất" trong tất cả ma thuật. Tất nhiên, ai định thử sử dụng loại ma thuật này thì chắc chắn đều sẽ nhận thấy nó vô cùng khó, và những gì trong bài giảng của thầy chỉ là những điều lẻ tẻ bên phần rìa của đề tài nghiên cứu này, nhưng hình như ông già cũng hiểu được điều đó.
"Quả đúng là ngay từ đầu tôi đã có nghĩ là hãy phớt lờ mấy thứ ma thuật hiện đại."
"Nhưng việc học tập nó vẫn là trọng yếu."
Ông già đằng hắng một tiếng.
"Thông qua việc học cái đống tạp nhạp đó để rồi lại càng khinh thường nó nhỉ... Nhưng nó lại làm ta nghĩ rằng cũng chính vì thế mà những cái quan điểm dị đạo giống như của cậu mới được sinh ra đấy."
"Tôi rất vinh hạnh vì được ông đánh giá quá cao như vậy." Sư phụ tôi cúi chào và cẩn trọng nói. "Tuy nhiên, hẳn là không có chuyện ông đến đây chỉ để nói điều đó đâu nhỉ?"
"Dĩ nhiên rồi."
Ông già ngồi xe lăn nhún vai. Trong căn phòng đầy sự căng thẳng, chỉ có cậu bé đẩy xe lăn là không có cảm xúc gì.
"Ta có một chuyện đang muốn làm rõ." Ông già nói, nhỏm về phía trước. "Lý do mà cậu đến đây là... vì Khắc Ấn Ma Thuật của nhà El-Melloi đã bị hư hại đúng không?"
Câu nói này giống như một tia sét.
Sư phụ tôi cứng đơ như thể đích thân Chúa đã giáng tai ương xuống đầu thầy.
"Nào nào, chuyện đó còn chẳng thể gọi là suy luận nữa là. Nếu như biết đến biệt danh Phục Nguyên Sư của Ashborn, thì ý tưởng đó sẽ được nghĩ đến đầu tiên mà. Huống hồ là trường hợp của cậu với cái sự kiện 10 năm trước thì nó lại càng hiển nhiên hơn nữa."
"…Ông còn biết cả sự kiện đó nữa ư?"
"Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ tư tại thành phố Fuyuki." Ông thản nhiên nói. "Sư phụ của cậu, Kayneth El-Melloi Archibald, đã tham gia vào cuộc chiến giữa các Anh Linh tại Viễn Đông 10 năm về trước, và rồi bỏ mạng. Nhưng nếu như Khắc Ấn Ma Thuật hoạt động hoàn hảo ngay từ đầu, thì ông ta đã chẳng đến nỗi bị chết rồi. Nói ngược lại, sau cái chết của Kayneth, cho dù có thu hồi thi thể được đến mức nào thì Khắc Ấn Ma Thuật cũng đã phải chịu hư hại không thể tránh được."
"..."
Gương mặt của sư phụ tôi cứng lại như thây ma, thầy không thể nói được câu nào. Đó là tất cả những gì mà thầy có thể làm dưới ánh mắt quan sát của ông ta.
"Dám hỏi, mức độ thu hồi an toàn là bao nhiêu? Năm phần? Ba phần? Không, nếu là cuộc chiến giữa các Anh Linh, thì chẳng thể thu hồi được đến một phần mười đâu nhỉ? Phải rồi, nhắc mới nhớ, khi đó cậu còn trẻ và đã tham gia làm kẻ đối địch của thầy Kayneth mà. Liệu cậu có dính dáng đến cái chết ông ta không nhỉ? Không, có khi nào cậu đã trực tiếp giết chết ông ta bằng Anh Linh mà mình sai khiến?"
Giọng của Orlocke gợi lại quá khứ của mười năm trước. Một lần nữa, sư phụ tôi rõ ràng là đang nhớ đến tội lỗi mà thầy không thể trốn tránh.
...Sư phụ... đã giết chết sư phụ của chính mình sao?
Kể cả tôi cũng cảm thấy sốc trước cái điều vượt hẳn ra ngoài suy nghĩ của mình. Tất nhiên, như điều chúng tôi vừa mới nói ban nãy, giết hoặc bị giết là một thực tế thường thấy giữa các pháp sư. Nhưng, việc biết được rằng sư phụ tôi đã tự mình trải nghiệm điều đó, tựa như một cú sốc đánh trực tiếp vào bộ não của tôi.
Sau khi im lặng một hồi lâu, sư phụ tôi lấy lại chai rượu whiskey đặt bên cạnh Orlocke, tự rót cho mình một ly nữa, và uống liền một hơi.
"...Tại sao... tôi lại phải trả lời câu hỏi đó chứ?"
Ông già bật cười. Sau một tràng cười khá dài,
"Khắc Ấn Ma Thuật của ta cũng tương tự vậy đó."
Hạ giọng xuống, ông ta thú thật.
"---!"
"Có vấn đề gì à? Không cần phải cố tình làm cái vẻ mặt sửng sốt đó đâu. Đúng như đứa con gái nhà Edelfelt đó đã đoán. Khắc Ấn Ma Thuật của nhà Caesarmund đang đi tới giới hạn. Nó cũng bị suy tàn và lão hóa giống như chính ta."
Đó đơn giản là số phận.
Nếu xem một Khắc Ấn Ma Thuật giống như một cơ quan nội tạng, thì hiển nhiên là nó có tuổi thọ. Dĩ nhiên không so sánh được với những dạng sống khác có tuổi thọ khoảng vài thế kỷ, hoặc một số trường hợp lên đến thiên niên kỷ, Khắc Ấn Ma Thuật tùy thuộc vào bản chất của chính nó. Một Khắc Ấn khi đã quá lâu đời thì cuối cùng cũng sẽ bắt đầu suy tàn. Nghe đến đây, khuôn mặt của sư phụ tôi trở nên ảm đạm.
"...Ông nói với tôi điều đó để làm gì?"
Ngay cả tôi, người đang quan sát ngoài cuộc, cũng không thể đoán được tại sao ông lại quyết định tiết lộ điểm yếu của mình như thế. Xét về kỹ năng thuần túy trong ma thuật, không ai trong số những người đến với Lâu đài Biệt Cư này đáng sợ như ông ta. Bất kể đánh giá của ông ta về thầy ra sao, mục đích đằng sau việc chia sẻ thông tin bí mật đó với một pháp sư hạng hai như sư phụ tôi có thể là gì?
Nhưng, trước khi trả lời câu hỏi đó, ông già chập hai tay vào nhau.
"Chúng ta sẽ kết làm đồng minh nhé?" Ông nói.
"Đồng minh?"
"Ừ." Ông ta vô cùng bình tĩnh, gật đầu. "Ta cũng chẳng biết bí pháp của Ashborn được áp dụng với bao nhiêu người và trong thời gian bao lâu. Nhưng giả như nó không phải là thứ chỉ dùng được mỗi một lần thì hẳn là có chỗ để chúng ta hợp tác rồi."
"...Nhưng nếu vậy, ông nên kết đồng minh với đối tượng nào khác ngoài tôi thì tốt hơn chứ?"
Quả nhiên, giọng nói của sư phụ tôi đã phản bội lại sự thận trọng của thầy. Trong cuộc thi tính đến bây giờ, sư phụ tôi là một trong những đối thủ có ít thách thức nhất. Và đây là con đường duy nhất để thầy sống sót.
"Thế mà ông lại chọn tôi... Giả sử trong trường hợp bí pháp đó phải mất nhiều năm mới có thể áp dụng, hoặc chỉ áp dụng được có một lần... Thì có lẽ ông làm vậy bởi vì tôi là kẻ dễ bị giết nhất trong số người ở đây đấy nhỉ?"
Đáp lại câu hỏi của thầy, Orlocke cười bình thản. Có vẻ như số nếp nhăn trên mặt ông tăng lên gấp đôi với cử chỉ đơn giản đó. Những cái bóng nhởn nhơ trên vẻ mặt phức tạp của ông khiến cho ông trông như đã biến hình thành một con quái vật.
"Ôi ôi, sợ quá sợ quá." Orlocke giơ hai tay lên với câu trả lời khôi hài của mình. "Mà cũng phải, lỡ như bí pháp đó chỉ áp dụng được có một lần thì đành vậy thôi. Hiển nhiên là tới lúc ấy ta sẽ dự định chiếm lấy nó mà. Ta không có cố tình che giấu điều đó đâu. Thế nhưng mà, về vấn đề thời gian... nếu chỉ là khoảng vài chục năm thì cậu có thể cứ sử dụng nó trước đi."
"Tôi được phép sử dụng nó trước sao?" Đôi vai của sư phụ tôi run lên trước lời đề nghị không ngờ.
"Ờ. Vì Khắc Ấn Ma Thuật của ta sẽ chẳng có vấn đề gì trong vài thập kỷ nữa, và ta cũng định sẽ tiếp tục sống đến lúc đó mà." Một lần nữa, ông ta cười. Nhưng lẫn trong tiếng cười đó là lời lẽ thể hiện rõ rệt sự nghiêm túc. Mặc dù chính ông đã nói Khắc Ấn Ma Thuật của mình đang bị tàn lụi, vậy mà ông vẫn tuyên bố thẳng thắn rằng sẽ không có vấn đề gì trong những tháng tới, thậm chí là trong những năm tới. Tôi buộc lòng phải thầm công nhận rằng Orlocke không chỉ khác xa so với con người mà còn với các sinh vật sống nói chung.
-Giống như những thứ ở quê nhà của tôi.
"Tôi có thể hỏi ông một chút chứ?" Đến lượt sư phụ tôi nói.
"Hô. Nếu như ta có thể trả lời."
"Lúc Heine-san đang điều tra lâu đài, thì ông đang làm gì vậy?"
"Hô!" Những nếp nhăn trên mặt ông xích lại với nhau, và mắt ông mở to. "Chẳng lẽ đây là nó đấy hả? Cái thứ gọi là chứng cứ ngoại phạm gì đó ấy!? Cậu đang hỏi chứng cứ ngoại phạm của ta đó sao!?"
Orlocke đập vào thành ghế xe lăn, không phải vì tức giận, mà là trông như vì một cảm xúc vui vẻ quá mức. Miệng ông ta, ngoác ra vì tiếng cười, để lộ ra trong đó chỉ còn lại một vài cái răng ố. Xung quanh bộ mặt cười đó là những con bướm phát sáng nhẹ nhàng bay lượn trong tầm mắt.
"...Nhưng rồi sẽ thế nào đây? Hẳn là vừa rồi cậu cũng đã thấy những con bướm này. Hiện tại, tất cả mọi người ở trong Lâu Đài Biệt Cư đều là pháp sư. Xác nhận mấy cái bằng chứng ngoại phạm tầm thường rồi thì làm quái gì chứ?"
"Đồng thời, nơi đây cũng là Xưởng Phép của nhà Ashborn." Sư phụ tôi trả lời mà không đắn đo.
Xưởng Phép là một 'không gian biến tính' do một pháp sư tạo ra nhằm mục đích luyện tập ma thuật của chính mình. Bất kể có là một pháp sư cao cường đến mức nào, nếu làm phép bên trong xưởng phép của một pháp sư khác, những phép thần bí và ma thuật có thể sử dụng đều sẽ bị hạn chế rất nhiều. Rõ ràng là vậy.
Sư phụ tôi lại nói.
"Nó không phải là nơi có thể nhanh chóng áp dụng một lời nguyền từ xa nếu như không có sự sửa soạn từ trước. Tối thiểu, một lời nguyền giống như thứ chiến đấu chính diện với Heine Istari cũng cần đến một sự chuẩn bị đáng kể."
"...Hừm, đúng vậy đúng vậy. Thật là logic đấy." Gật đầu như thể thật sự thích thú với phân tích của sư phụ tôi, ông già gõ lên tay vịn ghế màu hổ phách của mình. "Nhưng mà, cái suy nghĩ thật chẳng giống một pháp sư gì cả đó sẽ dẫn dụ và đẩy ma thuật của cậu rơi vào chỗ kết thúc tầm thường hơn nữa đấy. Không thể nói đó là một con đường hạnh phúc đâu."
"..."
Sư phụ tôi không phản bác. Hình như thầy đã đoán được ông ta sẽ nói những lời này, và đã sẵn sàng đón nhận chúng. Có lẽ vì vậy mà ông không nói gì thêm nữa. Thay vào đó,
"Vào giờ đó thì ta đang đánh cờ với Chiêm Tinh Thuật Sư Flue. Chẳng biết nó có trở thành chứng cớ không nữa, nhưng trước đó một chút ta đã gọi người hầu nhà Ashborn mang đến món cá hồi hun khói làm đồ nhắm rượu. Nếu cần thì cậu cứ xác nhận lại đi."
Phía sau lưng ông, cậu bé lặng lẽ gật đầu.
"Cám ơn ông nhiều." Sư phụ tôi cúi chào và nói.
Orlocke nói tiếp. "...Nhân tiện, ta sẽ cho cậu biết một điều nữa. Vị Lord trẻ tuổi ạ."
"Một điều nữa, là gì thế?"
"Ờ. Vụ việc này ấy, là lời nguyền của Geryon Ashborn đấy."
Tôi nghe rõ có tiếng ai đó nuốt ực. Tôi thoáng tự hỏi không biết đó là tiếng của sư phụ tôi hay của tôi.
"Lời nguyền?"
Đương nhiên, trong thế giới pháp sư, lời nguyền là điều có thật. Bản chất thật sự của chúng rất đa dạng theo khu vực và chủng loại, nhưng nhìn chung thì chúng đều có chức năng là mang lại sự bất hạnh và tai hoạ. Nhưng điều làm cho cả sư phụ lẫn tôi cảm thấy lo lắng là, các lời nguyền trở nên mạnh hơn sau cái chết của người ếm nó là một điều khá phổ biến. Hơn thế nữa, nếu một người nổi tiếng như Geryon Ashborn sử dụng sinh mệnh của chính mình để làm năng lượng cho lời nguyền, tôi thậm chí không thể tưởng tượng được kết quả mà nó có thể đem đến khủng khiếp như thế nào.
Giả dụ, nó có thể mạnh đến nỗi quét sạch tất cả các pháp sư ở đây-
"Tại sao ông lại nghĩ nó là một lời nguyền?"
Orlocke cười một lần nữa. Điều đó làm liên tưởng đến một cái xương sọ gật tới lui, bộ răng gãy va lách cách.
"Geryon ấy. Ông ấy có một đứa con trai."
"Một đứa con trai? Nhưng mà chuyện đó đâu có được đăng ký ở Tháp Đồng Hồ chứ..."
"Đúng thế. Bởi vì nó đã bị một căn bệnh chết người quật ngã trước khi rời khỏi miền quê này."
Đôi mắt của sư phụ tôi nhíu lại trước thông tin mới này.
"Mặc dù vốn là một pháp sư, nhưng ông ấy rất yêu thương bảo bọc đứa con của mình. Ta cũng phải vô cùng khen ngợi đấy. Cái chết của bà vợ ngay sau khi hạ sinh đứa con trai đó có lẽ cũng là một lý do quan trọng, nhưng chắc hẳn việc hai mẹ con họ đều bị gục ngã bởi cùng một căn bệnh lại càng làm cho ông ấy đau đớn thêm nữa. Đó là nhân quả sinh mệnh... mà trong y học hiện đại gọi là bệnh nan y di truyền theo gen ấy. Ngay cả loại thuốc bí dược mà ông ấy nhận từ một vị Druid[22] cũng chẳng giúp ích gì được. Giống như khi người vợ yêu quý của ông ấy suy yếu từng ngày, cậu con trai đó cuối cùng đã mất mạng. A, cái cảm giác đó nó như thế nào nhỉ?"
…
Về cơ bản thì pháp sư yêu thương con cái của họ. Không chỉ vì mục tiêu mà họ nhắm đến đối với việc duy trì nòi giống về sau, ngoại trừ một số ngoại lệ rất đặc biệt, một Khắc Ấn Ma Thuật chỉ có thể được truyền cho người trong dòng họ. Nhưng theo cách nói của ông Orlocke, có vẻ như chủ nhân cũ của Lâu Đài Biệt Cư đã có một tình cảm sâu sắc hơn thế đối với con trai mình.
Điều đó trở nên rất rõ ràng theo như những gì ông nói tiếp đó.
"Khi đứa con trai đó chết, ông ấy đã hóa điên."
"Hóa điên ư?"
"Ờ."
Ông già ngồi xe lăn gật đầu, ánh mắt ông trở nên xa xôi. Có lẽ ông đang nhớ về một nơi xa xưa, về một quá khứ xa xưa - một thời mà có lẽ cả ông cũng tin vào giá trị của một trái tim nồng nhiệt, giá trị của niềm tin vào người khác.
"Cậu đã nói, tại sao ta nghĩ đó là một lời nguyền nhỉ."
Khuôn mặt đầy nếp nhăn của ông nhăn lại. Nhiều thứ cảm xúc lướt qua trên mặt ông, tạo nên từ những nếp nhăn đó. Giống như khi pha trộn đủ mọi màu sắc với nhau, ta rút cuộc lại được một màu đen, hàng ngàn nếp nhăn trên khuôn mặt của ông cũng hiện y như thế.
"Ta hiểu rất rõ," Ông nói. "Ngày xưa, ta và Geryon đã tiến hành một số nghiên cứu tại Lâu Đài Biệt Cư Adra này mà."
Trong khi đó.
Một lần nữa, cô thử xem xét vụ việc từ một góc độ khác.
Ngồi trên một chiếc ghế bập bênh cổ điển, cô bỏ ra nhiều phút đồng hồ để loay hoay với tấm bản đồ và các dụng cụ nhỏ xếp trên cái bàn trước mặt mình.
Trong tất cả các phòng dành cho khách trong lâu đài, chỉ riêng phòng này là được tu sửa.
Chỉ đơn giản từ lời nói của cô, rằng căn phòng không đem lại cảm giác thoải mái, người hầu của cô đã hiểu được ý muốn của cô và hoàn thành công việc chỉnh sửa lại nó trong vòng vài giờ. Tất nhiên, phần lớn các vật tư được chở đến bằng một chiếc máy bay trực thăng chở hàng, và chiếc máy bay này do nhà Edelfelt sở hữu, nên phần lớn việc lao động chân tay chỉ là di chuyển một ít đồ dùng trong nhà. Nhưng chính vì vậy mà bản thân Luvia bất ngờ thức giấc khi Lord El-Melloi II gọi cô, và rút cuộc là bị vướng vào vụ án đó.
"…Tạm thế đã." Khi cô nói vậy, một giọng nói cất lên bên cạnh cô.
"Thưa cô chủ."
"Gì vậy, Clown?"
"Hồng trà đã sẵn sàng. Xin cô hãy tạm dừng để thay đổi không khí đi ạ." Cũng với một vẻ ngoài không tương xứng, người quản gia tóc bờm ngựa và đeo kính râm cúi đầu dâng lên cho cô một tách trà.
Tách trà bốc lên một làn hơi nước dễ chịu, cho thấy rằng nó đã được hâm nóng đủ độ - đúng theo thói quen dùng trà của Luvia - và khi cô đưa nó lên miệng, biểu cảm của cô cuối cùng cũng bớt khô khan phần nào. Trà màu cam có phớt chút màu xanh lá, nói lên xuất xứ của nó ở Nuwara Eliya, và mùi thơm dễ chịu của nó thật hoàn hảo để làm lắng dịu tâm trạng gay gắt của cô. Hương vị hơi đậm này vô cùng hợp ý cô.
Sau khi thưởng thức trà trong ít phút,
"Thế nào rồi ạ?" Người hầu của cô hỏi nhỏ. Một giọng nói được cẩn trọng cất lên nhằm tránh không làm hỏng tâm trạng của cô quá nhiều. Sự rèn luyện của anh không ngừng được hoàn thiện, đến mức khiến cô vừa thấy thỏa mãn mà cũng vừa thấy có chút buồn phiền.
Luvia hạ tách trà xuống.
"Ừ thì. Nó cũng tạm thời thành hình rồi, nhưng mà..." Cô híp mắt lại khi nói.
Đối với Luviagelita Edelfelt, nguyên do mà cô đến lâu đài này, có thể xem là vì một mục đích kinh doanh. Như Orlocke Caesarmund đã nói lúc trước, gia tộc tai tiếng này muốn người ta xem họ như "bọn linh cẩu kiêu ngạo nhất quả đất". Tất nhiên, việc bảo vệ bí mật của gia tộc là chuyện thường tình, nhưng họ cũng khá thành thạo trong việc xử lý và vận dụng những bí mật đó.
Vụ việc lần này chẳng khác gì công việc thường ngày của cô.
Ít nhất thì lẽ ra nó phải là như thế.
"…Chẳng còn cách nào, đành phải cố gắng thôi nhỉ."
Một lần nữa, ánh mắt cô hướng trở lại tấm bản đồ trên bàn.
Đó là một tấm bản đồ cũ mà cô đã mua trước khi đến đây. Tất nhiên nó không thể hiện chi tiết nào của Lâu Đài Biệt Cư, mà chỉ có phần thiết kế giả để đánh lừa các nhân viên công chức. Nhưng xếp trên bản đồ lại là nhiều loại đá quý.
Hồng Ngọc.
Lam Ngọc.
Bích Ngọc.
Kim cương.
Mỗi một viên đá quý đều làm cho cô cảm thấy vui lên khi ngắm. Hiển nhiên là chúng có kích cỡ và độ sáng rất tuyệt, nhưng tay nghề cắt gọt mỗi viên ngọc mới là hoàn hảo. Như thể được kết nối với Luvia bằng một sợi dây vô hình nào đó, chúng phát ra một áp lực bí ẩn.
Ma Thuật Bảo Thạch.
Đây là sở trường của gia tộc Edelfelt. Đây là một nhánh ma thuật sử dụng các thuộc tính tự nhiên của những viên đá quý này, biến chúng thành vật lý tưởng để chứa năng lượng ma thuật. Đảo mắt qua từng viên ngọc một lần nữa, Luvia chuẩn bị tinh thần và nhắm mắt lại.
Hình ảnh là một trái tim.
Trái tim của chính cô, giờ tự bản thân nó là một viên đá quý, bị nứt và vỡ ra. Khoảnh khắc mà những âm thanh huyền ảo chạm tới đầu ngón tay cô, cơ thể cô trở nên không khác gì một bánh răng trong cỗ máy tạo ra một phép Thần Bí. Một số dây thần kinh trong cơ thể của cô, tổng cộng là một trăm, biến thành các Mạch Ma Thuật, và kết nối với nghi thức mà cô đang thực hiện. Đồng thời, ý thức của Luvia phát triển thành một cơ thể hư không.
Khi cảm giác này xâm chiếm, Luvia mở miệng.
- "
Call ."
Như thể được thúc đẩy bởi một luồng gió, các viên ngọc bắt đầu chuyển động. Các viên ngọc, với nhiều hình dạng nhưng ngoại trừ hình cầu, bắt đầu lơ lửng, và rồi theo cách mà dường như không thể thực hiện bằng quy luật vật lý, chúng bắt đầu quay xung quanh cái bàn.
Điều mà cô đang làm là sử dụng những viên ngọc để thăm dò mạch ngầm.
Kỹ thuật dò tìm các mạch nước ngầm hoặc các mạch mỏ được biết đến ngay cả trong công chúng. Hình ảnh của một người dò mạch ngầm đi loanh quanh với hai cây que gấp khúc khá phổ biến trên các loại sách báo và kênh truyền hình. Lúc này, Luvia đang sử dụng kỹ thuật truyền thống đó, kết hợp thêm với những kế hoạch của riêng cô.
"Thou art the Mars, blessing fram war deity." [Nhà ngươi là Sao Hỏa. Kẻ nhận lấy hơi thở của Thần chiến tranh.][23]
Thổi lên viên hồng ngọc, cô kích hoạt nó.
Tùy vào trường phái học thuật, thiên thể tương ứng với mỗi loại ngọc vô cùng đa dạng. Ví dụ, hồng ngọc thường được liên hệ với Mặt Trời, hoặc Sao Kim.
Nhưng trong Kabbalah thì là... Sao Hỏa.
Vì chúng là những cái tên lấy từ Shemhamphorae nên rất có khả năng nền tảng ma thuật của Lâu Đài Biệt Cư là Kabbalah. Hoàn toàn khớp với trường phái của nó là điều không thể được, nhưng nếu cô lần theo cùng một hướng suy luận, thì ma thuật này vẫn có hiệu quả hơn.
Màu sắc là đỏ, con số là năm, kim loại là sắt, thiên sứ bảo hộ là Camael.
Luvia đọc lại thật kỹ Sephirah có liên quan đến hồng ngọc. Khi đọc đến đoạn cuối, cô nghiến răng. Ngay cả ở đây cũng có các thiên sứ.
Tất nhiên, vì Kabbalah lấy Kinh Thánh làm nền tảng, nên có thể suy ra rằng thường hay có sự xuất hiện của các thiên sứ, nhưng cô thấy khó kiềm chế được nỗi bực mình trước tần suất xuất hiện của chúng. Chuyển sự bực mình đó sang sự chú tâm vào ma thuật, cô liếc mắt sang viên lam ngọc.
"Thou art the Jupiter, blessing fram our father." [Nhà ngươi là Sao Mộc. Kẻ nhận lấy hơi thở từ Cha của các vị thần.][24]
Cô tiếp tục kích hoạt viên bích ngọc và kim cương ngay sau đó.
Khi hoàn tất, chuyển động của các viên ngọc trở nên mạnh mẽ hơn. Như thể mỗi viên có một phản ứng riêng đối với trọng lực, những viên đá quý chuyển động quay theo một khuôn mẫu trông giống như sự chuyển động của các thiên thể thật sự. Vì chúng vốn là những thứ được lấy lên từ trái đất, nên theo quan điểm của một pháp sư thì có thể nói điều này là đương nhiên.
Những viên đá quý vẫn đang xoay quanh tấm bản đồ cũ, trọng tâm quay của chúng là dinh thự.
Luvia cẩn thận theo dõi chuyển động của những viên đá. Là một người mà có thể xem như đã tạo ra mô hình thu nhỏ trước mắt mình, cô không hề rời mắt khỏi nó một khắc nào.
Tuy nhiên, như thể có một bàn tay vô hình đã vung xuống và chộp lấy chúng, chuyển động của những viên đá đột ngột dừng lại.
"...Quả nhiên là có trở ngại mà." Cô thì thầm.
Nhìn xuống những viên ngọc nằm trên bàn, Clown dè dặt nói.
"Cho đến giờ mà kết giới của Ashborn vẫn còn hiệu lực ạ?"
"Dù thế thì nó cũng là một điều hiển nhiên thôi, khi mà nơi đây là Xưởng Phép của pháp sư... cho nên điều này có thể lường trước được. Tuy vậy nhưng vẫn có một điểm không thể hiểu nổi.", Luvia thì thầm trong khi đang nhìn vào phần rìa của bản đồ trước mặt.
"Điều gì không thể hiểu nổi ạ?"
"Ừ... Dĩ nhiên, đó là chuyện hung thủ phải cất công thông báo trước cách giết người."
"...Là cái tên Hachasiah ấy ạ?"
Clown nói nhỏ cái tên thiên sứ của Hishiri Adashino.
"Nếu là Michael của tôi thì nó sẽ ứng với xương chày ở chân trái."
Ngay đến Luvia cũng có đủ kiến thức để biết về sự liên quan giữa 72 thiên thần và các bộ phận trên cơ thể con người. Thực chất, cô đã không nhận ra sự liên quan giữa những cái tên thiên sứ và mục tiêu của việc lấy đi một phần thân thể cho đến khi người đó nói ra, nhưng điều đó chỉ khiến cô bực tức hơn. Tương tự như đối với Shemhamphorae, cái cách mà Lord bày tỏ sự quan tâm quá mức đối với ma thuật của người khác làm cho cô cảm thấy gai mắt.
…Ông ta thật vô tư với người khác.
Tất nhiên, sử dụng chiêu thuật của các pháp sư khác nhằm tham khảo cho chiêu thuật của chính mình là chuyện bình thường. Dù sao thì chính bản thân nhà Edelfelt cũng đã trở nên nổi tiếng qua việc thu thập các Bí Pháp và Lễ Khí Ma Thuật do những gia tộc khác xây dựng nên.
Nhưng ngoại trừ điều đó, không có ích lợi gì ở việc quan tâm đến ma thuật của những người khác hơn là sử dụng chúng để trau dồi ma thuật của chính mình. Bí Pháp, gia sản, suy cho cùng thì những thứ đó tồn tại chỉ để trau dồi cho chính chúng. Sự thật là họ tin rằng ma thuật của họ kết nối họ với Căn Nguyên, và đó là tất cả những gì mà họ dựa vào để tiếp tục lừa gạt chính mình.
Phương pháp và mục tiêu đã được thiết lập ngay từ đầu, nên bất kể loại tình huống nào nảy sinh... phải, kể cả đối với bọn Thuật Sĩ đáng khinh, thì ma thuật của người khác cũng chẳng khác gì cơ hội để rèn luyện ma thuật của chính mình.
Còn người đó hình như đã đổi sang hướng khác. Không có pháp sư nào, tất nhiên là cũng không có Thuật Sĩ nào, có suy nghĩ như ông ta. Ngay cả Khoa Pháp Chính xem ma thuật như một công cụ để duy trì trật tự bên trong Tháp Đồng Hồ, cũng không giống ông ta. Chính điều đó đã gây ra cảm giác khó chịu và nóng nảy khuấy động trong lòng cô.
"Việc đó là để phục vụ cho một thứ ma thuật nào đó chăng?"
Tiếng nói của người quản gia giúp Luvia bình tĩnh lại.
"Luvia-sama?"
"Không, đối với việc hủy hoại xác chết," Đằng hắng xong, cô nói tiếp. "Thì tôi đã nghĩ đến khả năng đó rồi. Không chỉ trong Tử Linh Thuật, nếu là việc cướp đoạt của pháp sư các bộ phận ứng với 12 cung Hoàng Đạo, thì có rất nhiều khả năng chuyển dụng nó thành thuật thức tương đương. Có thể nói là quá thừa luôn ấy... Nhưng như vậy thì cũng chẳng cần phải báo trước cho chúng ta làm gì cả."
Đôi mắt của Luvia tỏa ra sự lạnh lẽo, tựa như đôi mắt của một nhà khoa học đang quan sát cuộc thí nghiệm một cách hết sức tỉ mỉ.
"Ít nhất, nếu như nắm được gì đó từ đám người hầu nhà Ashborn thì tốt."
Tất nhiên, họ đã hỏi những người hầu xem họ có biết được điều gì không. Nhưng, đúng như đã đoán, họ không biết gì hết. Mặc dù có thể là họ đang thông đồng với nhau để đưa ra một lời nói dối nhất quán, nhưng thực chất của vấn đề là ở chỗ, thông thường thì gia đinh của một gia tộc pháp sư hoàn toàn không có nhận thức về sự tồn tại của ma thuật. Cho dù tất cả những chuyện này đều là âm mưu nào đó của Geryon Ashborn, thì cũng vô cùng bình thường khi cho rằng những người hầu không được biết gì cả.
"Nếu là chuyện chứng cứ ngoại phạm đơn thuần thì còn hiểu được, nhưng mà..."
Trong khi cô thẩm vấn những người hầu của nhà Ashborn, cô cũng hỏi từng người trong số những pháp sư hiện diện ở lâu đài về những gì họ đã làm vào thời điểm mà rất có thể là đã xảy ra vụ án. Hỏi trực tiếp Orlocke về những gì đã xảy ra thì có hơi thừa một chút. Ngoại trừ ông ta thì các câu trả lời mà cô nhận được như sau:
"Rất tiếc phải nói rằng người phát hiện vụ việc là tôi đây thì lại chẳng có bằng chứng có lợi nào cả."
"Em đang đợi Onii-sama ở trong phòng riêng. Không nói đến lúc chiến đấu, Onii-sama sẽ không làm cái việc làm nhục xác chết một cách tàn nhẫn như thế đâu ạ!"
"Tôi với Gray thì đã đi ngủ."
"Hử? Vào giờ đó thì tôi đang đánh cờ với ông Orlocke. Ông già ấy trình độ trung bình, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là tay ngang, nên thành ra bị bế tắc."
"Tôi thì đem rượu đến chỗ mấy anh người hầu nhà Ashborn. Nếu cần, anh cứ hỏi người nhận ấy."
Kết quả, những chứng cứ ngoại phạm trông như thế này:
Heine: X
Rosalind: X
El-Melloi và Gray: △
Flue: O
Orlocke và trợ lý của ông ta: O
Seigen: O
Lý do mà El-Melloi và Gray có một dấu tam giác là bởi vì người làm chứng duy nhất mà họ có là chính họ.
Tất nhiên, đối với một pháp sư, một chứng cứ ngoại phạm như vậy không thật sự giúp họ thoát khỏi diện tình nghi trong vụ giết người. Mặc dù đúng là khi còn ở trong lâu đài của Geryon Ashborn thì khả năng sử dụng ma thuật của họ bị hạn chế phần nào, nhưng rõ ràng là chưa đủ hạn chế để giúp cho Hishiri sống sót.
"…Nhưng mà nâng xác chết lên và xiên vào thanh kiếm của bức tượng theo kiểu đó thì quả là khó đấy." Cô bổ sung thêm những ý nghĩ của mình.
Dù dĩ nhiên là siêu năng lực dịch chuyển vật thể từ xa đã quá nổi tiếng có thể làm được việc này, nhưng một ma thuật đơn giản như làm nâng và di chuyển các vật thể thật ra lại khó đến không ngờ. Trước hết, ma thuật chọn một con đường vòng lừa gạt thế giới, rồi theo đó mà tạo ra kết quả mong muốn, cho nên nếu ta mong muốn một kết quả trực tiếp thì thà tự làm điều đó bằng tay còn nhanh hơn.
Tuy vậy, nếu sử dụng ma thuật cho mục đích này, thì cách phù hợp nhất đương nhiên là sử dụng một Khiển Sứ Linh. Có thể là một người có sức mạnh tương tự như con quái thú mà Heine đã nhìn thấy.
Thiên sứ và con thú …
Hơn thế nữa, cái bổn cũ soạn lại này.
Những Cherub phổ biến nhất với vai trò bảo vệ thiên đường, vốn có cùng một gốc rễ với những sinh vật như loài nhân sư Sphinx, hoặc sư bàng Anzû trong thần thoại Lưỡng Hà. Có rất nhiều dòng khác nhau về loài thú có cánh này, ví dụ như biểu tượng của Thánh Mark, vị thánh bảo trợ của Venice [Venezia - Ý], cũng là hình một con sư tử có cánh.
Chính vì vậy, cô quyết định ngừng dòng suy nghĩ của mình ở đây, và trở lại với một việc cấp thiết hơn.
"Vậy thì, tại sao vị pháp sư thuộc Khoa Pháp Chính lại bị giết chứ?"
"Có thể vì cô ta đã tìm ra di sản thừa kế của Ashborn, hoặc đầu mối về nó chăng?"
"Cô ta cũng có một cái 'Tên Thiên Sứ' nên điều đó cũng có thể lắm. Khả năng cô ta vừa là người quản lý lại vừa là người có tư cách tiếp nhận di sản thừa kế cũng rất cao. Nhưng mà quả thực, sự cần thiết của việc báo trước kia thì vẫn chưa thể giải thích được."
Luvia đặt một ngón tay lên viên hồng ngọc ở trên cái bàn trước mặt mình. Với sự dịu dàng như thể nó là người đồng hành đáng yêu, cô thận trọng và kỹ lưỡng quan sát khi viên ngọc màu đỏ lóe sáng. Sau khi suy nghĩ kỹ một hồi lâu,
"Chẳng hạn như... Đó là thông điệp dành cho ai đó chăng?"
"Một thông điệp ư?"
"Phải..."
Cô gật đầu và chuyển ý nghĩ chung chung này thành lời.
"Có thể nó là một thông điệp mang ý nghĩa đối với một trong số những người đã tập hợp ở đây. Bằng cách nhắn trước rằng 'Nào, từ giờ tôi sẽ giết người như thế này đây', có lẽ nó đang chờ đợi phản ứng của đối tượng đó đấy."
"…Ra vậy." Người hầu của cô gật nhẹ vài cái, như thể thực sự thấy ấn tượng về cái nhìn sâu sắc của cô chủ.
Sau đó, anh đổi sang đề tài khác.
"Cô thấy băn khoăn về vị Lord trẻ tuổi đó phải không ạ?"
"!!!"
Trước câu hỏi bất ngờ này, Luvia ngập ngừng trong giây lát. Nhanh chóng khôi phục lại và làm như không có chuyện gì, cô đáp lại bằng một câu hỏi khác.
"Sao anh lại hỏi vậy?"
"...Vì cô chủ vẫn thường bắt đầu tự săn sóc cho con thú bông những khi có chuyện gì băn khoăn lo lắng mà." Anh nói, đôi mắt phía sau cặp kính râm của anh ta liếc sang chiếc giường của Luvia.
Con thú nhồi bông của cô, với hình dạng một con chó được nhân cách hóa, ngồi ngay bên cạnh cái gối của cô, bộ lông của nó được chải chuốt tươm tất.
"…Chỉ là nó hơi bẩn một chút đấy thôi." Cô khẳng định bằng giọng khe khẽ. "Dù rằng nếu bảo là tôi không băn khoăn thì là nói dối rồi."
Lông mày của Luvia biểu lộ sự khó khăn. Tất nhiên, trở thành một Lord ở tuổi đó thì còn hơn cả một trường hợp ngoại lệ. Và mặc dù có những ngoại lệ đáng ngạc nhiên đối với các điều luật vẫn xuất hiện đây đó trong Tháp Đồng Hồ, không còn gì nghi ngờ khi ông ta là Lord trẻ nhất trong lịch sử Tháp Đồng Hồ.
Không.
Vấn đề không chỉ là độ tuổi. Lịch sử gia tộc của ông ta còn ở một đẳng cấp mà bất kể là người thế nào đi nữa thì việc được mời trở thành một Lord là rất đáng ngờ. Cô vốn đã bảo Clown tìm kiếm càng nhiều thông tin càng tốt về những vị khách đến lâu đài. Gia tộc của ông ta bắt đầu học ma thuật chỉ mới được hai thế hệ. Sự việc các pháp sư có truyền thống lâu đời trong việc nghiên cứu thần bí đã để cho một tên pháp sư đời thứ ba đứng chung hàng ngũ với họ đã nêu lên một cách hùng hồn về người hậu thuẫn của ông ta.
Reines El-Melloi Archisorte.
Dù có thể nói đơn giản rằng cái chết của Lord El-Melloi đời trước và chuyện thừa kế gia sản của ông ta dẫn đến kết quả này, nhưng tùy theo quan điểm cá nhân, người khác cũng có thể nói rằng chính là nhờ trò ma mãnh của cô ta nên bọn họ mới giành lấy được danh vị Lord.
…Nhưng thật ra mình không rõ đó có phải thật sự là một người xấu xa như thế không.
Bây giờ, cô tạm chừa lại phần phán xét đối với Lord El-Melloi II. Có thể cô đã có được quan điểm khách quan về ông ta, nhưng cô sẽ không để cho điều đó xen vào ý kiến chuyên môn của mình. Nhưng cô cũng đi đến một nhận định chắc chắn.
Hai người họ chắc chắn không hợp nhau.
Ông ta, từ trong cốt lõi, đã bị méo mó về mặt nào đó.
Nghĩ đến đó, cô đột nhiên ngẩng đầu lên. Có tiếng gõ cửa.
Chỉ với cái liếc mắt của cô, Clown nhận được mệnh lệnh, và lập tức hành động. Đứng vào trong góc khuất của cánh cửa, anh ta xoay tay nắm cửa bằng lưng bàn tay. Cánh cửa mở ra, và một bóng người ung dung xuất hiện từ đằng sau nó.
"Oa!" Người này hét lên. Hiển nhiên, ở mặt bên kia của cánh cửa, vị khách mới đến phát hiện ra người hầu của Luvia, hai tay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
"Này này. Tôi năn nỉ đây, thôi cái kiểu đón tiếp nguy hiểm này đi được không?!" Giơ cả hai tay lên trời, người khách nuốt ực một cách căng thẳng. Tư thế của gã tóc bờm cho thấy dụng ý giết người mà không có chút do dự. Chiều cao gần hai mét của anh ta đã là dữ dội, nhưng khi đứng trong tư thế chiến đấu thì thậm chí còn dữ dội hơn. Mặc dù chưa biết được liệu anh ta có phải là một pháp sư hay không, nhưng từ thực tế, gia tộc Edelfelt vô cùng kiêu ngạo cho rằng một mình anh ta cũng đủ sức làm nhiệm vụ hộ tống, cho thấy anh ta không phải là một vệ sĩ bình thường.
Luvia nêu tên của người khách.
"Chiêm Tinh Thuật Sư Flue."
Giống với vẻ mặt mà cô dùng trong khi quan sát ma thuật của mình, đôi mắt cô tỏ vẻ vừa hân hoan lại vừa lạnh lùng.
"Bước vào phòng của người khác một cách lịch sự như thế nghĩa là ông đã chuẩn bị cho kiểu tiếp đón này, đúng không? Tôi không bận tâm lắm nếu lỡ như Clown tặng cho ông một cú đấm. Ngoài ra, tôi đang trong tâm trạng khá tồi tệ vào lúc này. Có thể moi tim của ông ra sẽ khiến nó tốt lên một chút. "
"Ha ha, quả đúng là Công Chúa Nhà Edelfelt!" Vuốt lên bộ mặt râu ria, gã chiêm tinh thuật sư cười vui vẻ.
Liếc qua chiếc bàn, nơi đặt tấm bản đồ của Luvia, Flue buông một tiếng huýt sáo khâm phục.
"Quả nhiên là cô đã bói rồi à? Nhưng dù cô giỏi đến đâu đi chăng nữa, tôi không nghĩ việc đó diễn ra thuận lợi."
"…Hừmm, biết đâu được."
"Làm ơn, không cần phải giả vờ đâu," Nhà chiêm tinh cười, nhìn Luvia với một mắt nhắm lại. "Có thể trông tôi luộm thuộm, nhưng tôi thật sự là một chiêm tinh thuật sư. Đương nhiên, Ma Thuật Bảo Thạch của nhà Edelfelt nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của tôi, nhưng nếu tôi bước vào giữa lúc diễn ra một nghi thức chiêm tinh thì không lý nào tôi lại không nhận ra nó. Ồ, và cũng đừng lo nghĩ khi thấy bối rối, vì đây là một xưởng phép của pháp sư. Ngay cả đất đai và không khí cũng đang chống lại chúng ta. Tôi đoán điều này cho thấy rằng Geryon Ashborn sẽ không sắp đặt chuyện này sao cho có thể được giải quyết toàn bộ ngay lập tức bằng thuật tiên tri. Nhưng mà tôi nghĩ chúng ta vẫn chưa thể chắc chắn được liệu vụ giết người kia có phải là do chính Geryon gây ra hay không."
Bài phát biểu dài của ông mang lại cảm giác như thể ông đang làm trò hề còn giống hơn cả Anh Hề [Clown]. Ngay lúc này, người hầu của Luvia vẫn đang thủ thế. Nếu ông ta phạm một sai lầm nào đó, những nắm đấm kia sẽ được tung ra, và cho dù ông ta xoay sở né tránh được chúng thì vẫn còn có ma thuật của Luvia đáng sợ hơn. Tuy biết vậy, Flue vẫn tiếp tục nói chuyện vô tư.
Luvia vươn tay chạm vào những đá quý trên bàn. Khi nói đến Ma Thuật Bảo Thạch, bản thân bảo thạch là nguồn cho toàn bộ ma thuật của chúng. Vậy nên đối với Luvia, hành động đơn giản này tương tự như chơi đùa với một khẩu súng lục trước mặt con tin của cô. Mà, xét đến năng lực của cô với tư cách là người nhà Edelfelt, có lẽ diễn tả chính xác hơn là nó giống như súng máy nòng xoay Gatling[25] hoặc súng phóng lựu.
Với một khí thế đầy kiểu cách, Luvia khẽ nói.
"Và đối với ông thì có gì khác?"
"...Tôi là một chiêm tinh thuật sư, cô biết mà. Những chuyện như thế là nghề của tôi."
Flue dùng bàn tay bẩn của mình vỗ vào bên hông, chỗ mà bộ đồ kiểu du mục của ông che khuất sợi dây đai có dắt những con dao găm. Mười hai con dao được cất ở đó, mỗi con dao đại biểu cho một ký hiệu trong hoàng đạo, cũng chính là những con dao mà ông đã khoe ra trước mặt mọi người tại bàn ăn tối vào hôm trước. Nếu ma thuật của Luvia sử dụng ma lực chứa trong các viên ngọc, thì ma thuật của ông sử dụng những con dao này phỏng theo các hành tinh.
"Chắc tôi nên đi vào thẳng vấn đề. Thật ra tôi không hoàn toàn muốn có cái gia tài gì đó đâu. Miễn sao mục tiêu cuối là kiếm được tiền từ nó." Lời nói của Flue thể hiện một cách hoàn hảo hình ảnh về một tên thuật sĩ bẩn thỉu. Đối với ông ta, ma thuật có lẽ chẳng hơn gì một cách thức kiếm tiền.
Nhưng, lối suy nghĩ này vẫn ít đáng ghét hơn là của Lord trẻ.
Cô ít ra cũng còn có thể hiểu được cách nghĩ này.
"Trái lại, cô sẽ sẵn lòng bỏ ra khá nhiều tiền nếu giành được quyền thừa kế, tôi nói có đúng không?" Flue tiếp tục, môi ông nhếch thành một nụ cười ám muội.
"Ông tới để xin tôi thuê mướn ông đấy à?"
"Sâu sắc đấy." Flue cười nói, tự vỗ lên ngực mình.
Một điều lạ lùng rằng ông ta lại là loại người có thể biểu lộ loại cảm xúc này mà trông không hề thô tục. Có lẽ đơn giản là vì sự thân thiện quá mức của ông. Thay vì như một đức tính cá nhân, đây dường như chỉ là bản chất của ông.
"Người đầu tiên mà tôi gặp ở đây là Lord El-Melloi II, nhưng anh ta nghèo như một tên ăn mày, đúng không?" Ông nói, nhướng một bên lông mày trong khi làm điệu bộ như túi tiền của mình quá nhẹ.
Nhưng nhờ điều đó, bầu không khí trong phòng thay đổi đáng kể.
Luvia với tay cầm lấy viên hồng ngọc trên bàn. Tuy hành động đó đủ để làm gia tăng sự căng thẳng trong phòng nhưng Flue tin rằng động cơ đốt trong ẩn bên trong cô ta đang kêu mãnh liệt. Cảm giác toàn bộ lông trên cơ thể dựng ngược, ông lại giơ tay lên và biểu lộ rằng cô đang chọc phá ông.
"Này, này, cô công chúa!"
"Vì tôi đã nói sẽ thuê ông, nên việc để ông thể hiện tay nghề là hợp lý thôi mà. Vậy thì đây, ít nhất, hãy cố sống sót với cái này. Clown, tránh ra."
Đạn mà Luvia đã bắn vào Lord El-Melloi II lúc trước chẳng đáng là gì ngoài một lời đe dọa, một khối dồn nén nỗi tức giận của cô. Ngay bây giờ, Luviagelita Edelfelt đang huy động năng lượng vào đầu ngón tay của cô đủ để triệt tiêu cả những sinh vật xếp vào loại Huyễn Tưởng Chủng cấp thấp.
Với một tiếng kêu êm ái, những viên ngọc nằm trên tấm bản đồ cũ tự động bay lên trên không. Phản ứng với ma lực của cô, từng viên đá quý bắt đầu phát sáng rực rỡ, và rồi bắt đầu xoay vòng tròn thành một lốc xoáy ánh sáng.
"Hãy chứng kiến, Kính Vạn Hoa của nhà Edelfelt."
Có phải câu thì thầm đó là tên của bùa chú này? Ma lực tỏa ra ánh sáng nhiều màu, giống như một kính vạn hoa. Chính bản thân nó là một bí thuật mang lại niềm tự hào cho gia tộc Edelfelt.
- "
Call ."
Theo tiếng nói của Luvia, cả cơn bão ma lực lẫn những viên ngọc lơ lửng trong phòng đều tập trung tại đầu ngón tay của cô.
"Â-â-a-aaaa!"
Trong chớp mắt, Flue rút ra một con dao. Con dao được ném về trước, nó lượn trên không cũng y như vào ngày hôm đó. Nhưng khác với lần trước, lần này nhà chiêm tinh vẽ ra một vòng tròn ma thuật trong không gian trước mặt của ông ta. Khi Clown nhảy sang một bên để tránh cuộc tấn công sắp tới, Flue gào lên hết sức.
- "
Lead me !"
Ánh sáng tràn ra bên ngoài.
Vụ nổ do Luvia và những viên đá quý của cô gây ra thật sự là giống kính vạn hoa. Lao xuống đầu Flue như một thiên thần chết chóc xinh đẹp, tiếng nổ rền vang và bụi mù tiếp sau đó lấp đầy mỗi inch trong căn phòng. Đến khi đám khói bụi tan hết, bức tường và sàn bị phá hủy chỉ ra vị trí vụ nổ xảy ra. Luvia đứng nhìn thành quả của mình với vẻ hài lòng ra mặt.
"Xuất sắc."
Tại một góc của khu vực bị nổ, gã chiêm tinh thuật sư trung niên ngồi co người lại như một con rùa đang chui vào mai. Vừa ho dữ dội, Flue lên giọng giận dữ.
"...Cô thật quái đản. Cô thật sự đang định giết tôi đấy à?!"
"Chà chà. Một chiêm tinh thuật sư mà thậm chí không thể dự đoán được cái chết của chính mình thì vô dụng đối với tôi. Tất nhiên là tôi đang định giết ông rồi." Câu nói của Luvia đem đến cảm giác của một đòn tấn công giống như bùa chú mà cô đã thực hiện lúc nãy.
Chỉ qua quan sát, Luvia dám chắc rằng ông tránh được đòn tấn công vừa rồi bằng cách tạo ra một không gian tức thời, nơi mà quy luật nhân quả không còn tác dụng. Nói ngắn gọn thì nó cũng giống như trò biểu diễn thông thường mà các thầy bói nêu ra 'hướng đi may mắn'. Ma thuật vận dụng linh hoạt các vùng may rủi như Phong Thủy, hoặc nhánh của nó là Âm Dương Đạo [Onmyōdō], cũng không hẳn là không thông dụng, nhưng loại ma thuật đủ mạnh để đối phó được với đòn tấn công của cô lúc nãy thì khá hiếm.
"Chết tiệt, quần áo của tôi bị đốt cháy hết rồi. Và cô còn phá huỷ một trong những vật dẫn của tôi nữa! Tôi mong là đã sẵn sàng đền bù cho mấy thứ đó!" Có lẽ vì vừa mới cận kề với cái chết, lời nói của Flue rõ ràng là trở nên thiếu thận trọng hơn trước. Nhưng ngược lại, Luvia nhận lấy những lời này một cách rất bình tĩnh.
"Tôi sẽ đưa cho ông một tấm ngân phiếu, cứ việc yêu cầu thanh toán bao nhiêu tùy thích. À, đúng rồi. Ông là Chiêm Tinh Thuật Sư, đồng thời cũng là một tên giết người chuyên nghiệp nữa nhỉ."
"Là lính đánh thuê chứ."
"Về cơ bản là như nhau, chẳng phải sao?"
"Nếu cô nói vậy với một người lính đánh thuê thật sự, thì đừng ngạc nhiên đến khi mình bị thương. Nhắc đến chuyện đó, chắc hẳn cô không phải là kẻ đã ra tay với cái người của Khoa Pháp Chính kia đâu nhỉ?" Flue hung hăng nói, phủi hai vai của mình một cách thô bạo.
"Ồ, nếu đúng thế thì ông sẽ làm gì nào?"
"Chẳng làm gì cả. Trong cái tình cảnh này, đã là pháp sư thì dẫu có bị người khác xơi tái cũng đâu thể phàn nàn gì được chứ. Và nếu là người của Khoa Pháp Chính đến coi giữ trật tự thì lại càng hơn thế nữa."
"Đúng thế nhỉ. Pháp sư là như vậy mà." Luvia trả lời với một nụ cười nhạt.
Trong tiếng nói đó chỉ có một phần nhỏ tự mâu thuẫn. Ngay cả sau khi gặp phải một cảnh kinh khủng như vậy, nguyện vọng của họ vẫn không thay đổi. Một lối sống được hình thành qua nhiều thế hệ, giống như một con rắn đang ăn cái đuôi của chính nó, danh dự và giá trị của họ đang dần dần tự huỷ hoại. Bất kể chuyện đó có vẻ vô lý ra sao đối với cô, lối sống đó trở thành một điều gần như thiêng liêng - chối bỏ nó, chối bỏ gốc rễ của khái niệm pháp sư, là không thể được.
"Phải, cho dù cô có đang giúp đỡ tên hung thủ thì cũng tốt thôi. Nếu mà là một yêu cầu vượt ra ngoài quy định thì tôi sẽ tăng thêm phần 'màu mè' lên, nhưng với người nhà Edelfelt thì thêm bao nhiêu đây nhỉ? Có điều, riêng lão Caesarmund đó thì tôi xin kiếu nhé. Cô có chồng bao nhiêu tiền thì tôi cũng cảm thấy mình không thể địch nổi ông ta đâu."
"Cũng được. Tôi cũng chẳng mong chờ chuyện như thế. Một đối thủ có giá trị thì phải do một người có giá trị ra tay mới được." Luvia gật nhẹ, thái độ của cô cho thấy rõ ràng rằng cô dĩ nhiên chính là người có giá trị đó. "Nếu đã lựa chọn ông, thì mục tiêu sẽ là một đối thủ không đáng để tôi phải động tay..."
Trong lúc đang nói, cô chợt ngưng lại. Nụ cười của cô nhẹ nhàng thay đổi. Với vẻ dịu dàng mà cay nghiệt đến mức tàn nhẫn, Luviagelita Edelfelt thì thầm.
"Ông có thể giúp tôi chôn cất Lord El-Melloi II đi được không?"
–—Buổi sáng ngày thứ ba.
Dường như ánh mắt của sư phụ tôi mang một mối ác cảm nào đó đối với mặt trời ban mai đang bắt đầu ló dạng bên các cửa sổ của lâu đài khi thầy đi bộ trong hành lang. Tôi đi cách sau thầy một quãng ngắn, len lén nhìn những người khác cũng đang đi cùng thầy. Những người khác đó dĩ nhiên là Orlocke và người trợ lý của ông ta.
"Hô, cậu định quay lại điều tra hiện trường sao?" Đến khi nhận ra hướng đi của sư phụ tôi, Orlocke lên tiếng.
Và hướng đi đó tất nhiên là khán phòng trung tâm, nơi có án ngữ một bức tượng thiên sứ, nơi mà Hishiri Adashino bị giết.
Khi tiến đến chỗ cánh cửa vào phòng, chúng tôi nhìn thấy một tấm biển tên trên cửa. Chúng tôi không nhận thấy điều đó trước đây, rằng có vẻ như ngay cả phòng này cũng có một cái tên.
"…Ừmmm... 'Chamael'?"
"Là Camael. Tuy nằm ngoài Schemhamphoras, nhưng xét từ quan hệ tương ứng với Cây Sinh Mệnh[26] thì nó cũng là một cái tên Thiên Sứ mang tính trung tâm trong Kabbalah. Đồng thời, nó là một Thiên Sứ có liên hệ mật thiết đến chòm sao Hổ Cáp và Sao Hỏa, và còn được cho là Thiên Sứ Bảo Hộ cho ngày thứ Ba." Sư phụ tôi nói , một lần nữa thầy không ngần ngại chia sẻ kiến thức của mình về chủ đề này. Tôi không rõ có phải vì đây chỉ là kiến thức thông thường đối với tất cả các pháp sư hay không, nhưng tôi cảm thấy có một chút khó chịu về cái cách thầy thản nhiên công khai những thông tin như thế vào mọi nơi mọi lúc.
"Vì chỉ huy các Thiên Sứ của sự phá hoại, nên đó là một Thiên Sứ thường hay bị xem là đồng nhất với ác ma." Như thể đang thử theo hướng đi của sư phụ tôi, Orlocke bổ sung thêm vào sau câu nói của thầy.
Cũng xin nói ngoài lề một chút, tôi chưa từng nghe thấy trợ lý của ông ta nói chuyện. Rất có khả năng cậu ta thật ra là một homunculus.
"-Tiếng bước chân của cậu quả thật khá vang khi ở chỗ này đấy nhỉ?" Orlocke nhắc nhở khi gót giầy của sư phụ tôi đạp lên sàn nhà. Khi thầy chậm rãi quỳ xuống sàn nhà, Orlocke hỏi thêm một câu khác. "Tuy nhiên, nếu điều tra hiện trường, đáng lẽ cậu nên làm điều đó ngay khi phát hiện thấy thi thể chứ hả?"
"Thì tại vì lúc đó, các pháp sư khác có thể sẽ tàn sát lẫn nhau. ...Và ông chính là kẻ đáng sợ nhất đấy."
"Chà chà," Orlocke cười khô khốc trước câu trả lời của sư phụ tôi.
Đối với người ngoài, có thể trông như đây là một ông già và đứa cháu nội của ông, đang vô cùng thân thiết với nhau. Nhưng trên thực tế, chẳng có gì lạ khi vào bất cứ thời điểm nào cũng có thể nổ ra cuộc đấu tranh sinh tử giữa hai người họ... Không, với sự khác biệt về năng lực của họ thì sẽ không phải tình thế nào ngoài một trận đồ sát từ một phía. Đó là kiểu hợp tác mà họ đang có.
Tuy thi thể đã được những người hầu của Ashborn di dời, một số vết máu vẫn còn vương vãi trong phòng. Đối với từng dấu vết một, ánh mắt và ngón tay của sư phụ tôi nhịp nhàng đánh giá chúng. Cách mỗi lúc một lần, sư phụ lại lấy ra một cái ống chất lỏng gì đó từ trong áo khoác của mình. Chỉ với một giọt của thứ chất lỏng đó, màu sắc của vết máu có sự thay đổi lớn. Trong khi theo dõi quá trình này, Orlocke vuốt cằm như thể đang đắm chìm vào đó.
"Hừm. Thay vì hóa học, nó lại là giả kim thuật sơ khai thời Trung Cổ à. Không, chính xác hơn là Thuật Phù Thủy của phái Ōkama nhỉ."
"Kiểm tra nồng độ ma lực còn sót lại trong vết máu, sẽ xác định được thời điểm cô Adashino tử vong. Thế này cũng có khác gì ma thuật đâu chứ."
"Tất nhiên, tất nhiên. Thật là hoài niệm về cái thời mà ma thuật và khoa học còn cùng chung chăn gối đấy. Dù rằng có lẽ sự sáng tạo đó có đôi chút hiện đại. Nhưng cách làm việc quá thẳng thắn này của cậu thật sự xa rời những điều Thần Bí đấy." Orlocke nói không chút khách khí, tựa như hoàn toàn say sưa với cuộc đối thoại.
"Dù đã thử nhiều cách rồi, nhưng rốt cuộc thì tôi thấy tâm đắc với cách này nhất." Sư phụ tôi trả lời một cách lịch sự, trong khi vẫn tiếp tục xét nghiệm.
Sau khi nhỏ một giọt dung dịch lên vết máu, thầy cẩn thận quan sát sự thay đổi màu sắc của nó, rồi lại chuyển sang cái khác. Thầy vừa đi vừa viết lại ghi chú trong một cuốn sổ, thỉnh thoảng lại lấy ra một cái ống khác ra sử dụng, nhỏ dung dịch ở chỗ mà thầy đã nhỏ nó lên lúc trước. Quy trình này lặp đi lặp lại trong suốt quá trình điều tra của thầy. Thật lòng, nếu là trong bất cứ tình huống nào khác, quy trình này đơn điệu đến mức nhàm chán. Tuy nhiên, Orlocke lại quan sát từng ly từng tý, vẻ mặt của ông giống như một đứa trẻ lần đầu tiên tìm thấy một con côn trùng.
"Cái 'Tên Thiên Sứ' ở chỗ của ta là Nanael." Orlocke đột nhiên nói.
"Chi phối Cung Bạch Dương. Ý nghĩa của nó là sự đánh mất niềm kiêu hãnh."[27]
"Ô. Nếu đúng như cậu phỏng đoán thì ta sẽ bị rứt bỏ lưỡi của mình rồi bị giết nhỉ. Khư khư, có khi như thế sẽ vui lắm đây."
"..." Không nói thêm câu nào, sư phụ tôi lại nhỏ một giọt chất lỏng nữa vào một trong những vết máu.
Khi mặt trời vẫn đang mọc lên một cách từ tốn bên ngoài cửa sổ, tôi bắt đầu thắc mắc không biết có gì trong bữa sáng hôm nay. Tôi thoáng ngửi được mùi gì ngon ngon lúc nãy, nên có lẽ đồ ăn đã được dọn sẵn trong phòng ăn giống như ngày hôm trước. Cứ như thể Hishiri Adashino chưa hề chết.
Hoặc có lẽ, một sự kiện như vậy không có gì khác thường đối với một pháp sư.
"…Quả đúng là kỳ quái."
Bỗng nhiên, sư phụ tôi phá vỡ sự im lặng, thầy vuốt cằm trong khi nói.
"Và đó là chuyện gì vậy?"
"…Chuyện gì đã xảy ra với kính của cô ấy?" Trước câu hỏi hơi kỳ cục đó, cả Orlocke lẫn tôi đều cau mày.
"Hô?"
"Xác chết không có đeo kính."
"Chuyện đó là phải thôi, làm sao mà móc nhãn cầu ra trong khi vẫn còn đeo kính được."
Orlocke đáp lại bằng một câu trả lời có vẻ hiển nhiên. Bởi vì nó hiển nhiên như thế, nên không ai trong số họ lưu ý đến điều này khi họ tìm thấy cô ấy lúc trước. Thay vì chú ý đến cặp mắt kính hoặc các tư trang khác của cô, sự chú ý của họ đều đổ dồn vào điều đã xảy ra với đôi mắt của cô.
"…Phải. Nhưng nếu đúng là như thế thì thời điểm tử vong của cô Adashino là..." Trước khi Orlocke có thể nói thêm điều gì,
"Ô chà, vậy là bây giờ hai người đang cộng tác với nhau, phải không?" Ông quay sang và nói về phía cánh cửa.
Ở ngưỡng cửa mà chúng tôi bước qua khi nãy, có thể thấy một bộ đôi đang đứng. Mặc dù chắc chắn cũng tương tự như sư phụ tôi với Orlocke, bọn họ quả thật trông như một cặp không cân xứng. Một cô gái xinh đẹp đến nỗi sẽ là tâm điểm của sự chú ý tại bất kỳ buổi khiêu vũ nào, cùng với một nhà chiêm tinh, bám đầy cáu bẩn, nhìn như thể ông ta vừa mới băng qua sa mạc.
Luvia và Flue.
Sau lưng bọn họ là người hầu tóc bờm ngựa của Luvia. Dù cao gần hai mét nhưng anh hòa lẫn vào khung cảnh này một cách hoàn hảo. Có lẽ đây là một loại kỹ năng chuyên môn của anh khi làm người hầu.
"Ya, xin lỗi nha." Flue vừa nói vừa gãi lên má. Trái ngược với lời nói, nụ cười của ông không hề tỏ ra ngượng ngùng bẽn lẽn. Khi nói tiếp, anh làm một động tác với ngón cái và ngón trỏ, như đang miêu tả độ dày của một xấp giấy bạc. "Tôi đã được 'chồng sẵn' chút ít. Tôi đã quyết định về phe này rồi."
"Tôi chẳng bận tâm đâu." Sư phụ tôi thờ ơ đáp lại, vẫn đang chống tay quỳ gối. Ngoài các ống nghiệm được lấy ra từ lúc nãy, hiện giờ đã có thêm một cái kính lúp, và thầy vẫn đang quan sát sự biến đổi màu sắc của những vết máu.
"Chỉ là, nếu có thể thì đừng quấy rầy vào lúc này nhé. Tôi đang điều tra đây."
"Ý ông là nhờ thế, ông sẽ hiểu được điều gì đó à?"
...Ủa?
Tôi cau mày. Giọng của Luvia có một vẻ gay gắt không sao che giấu được, hình như cô đang tức giận vì điều gì đó. Cho dù bọn họ chẳng qua là không ưa nhau, hoặc mối quan hệ của họ đã hỏng ngay từ lần gặp mặt đầu tiên, nhưng có một cảm giác nguy hiểm rõ ràng trong bầu không khí giữa hai người bọn họ ngay từ đầu, nhưng đây dường như còn có điều gì khác.
"Rất nhiều điều đấy."
"Rất nhiều? Ý ông muốn nói là ông sẽ hiểu được gì đó ở những đồng sự pháp sư mà ông còn chẳng biết rõ phạm vi năng lực ấy hả?" Lại lần nữa, cô ta hỏi một câu tương tự. Đây là một lời tuyên bố rõ ràng rằng cô sẽ không chấp nhận thêm bất kỳ câu trả lời nửa vời nào nữa. Trái lại, sư phụ tôi thậm chí không hề ngước mắt lên, thầy nói trong khi vẫn tiếp tục quan sát sàn nhà.
"Phải. Nó thật vô nghĩa. Đặc biệt là cái 'howdunnit' ấy."
"Howdunnit?"
"Đó là một từ chuyên dụng trong tiểu thuyết trinh thám. Nó là dạng ngắn gọn khi nói 'thủ đoạn gây án là gì'. Tương tự, whodunnit tức là 'thủ phạm là ai'. Chừng nào không giới hạn được các hiện tượng dị thường mà pháp sư gây ra thì cả hai câu hỏi đó đều vô nghĩa. Cả điều bí ẩn mà Geryon Ashborn đã để lại, lẫn vụ việc lần này, đều chẳng có chỗ nào để đưa ra những suy luận chính diện cả."
Tôi hiểu được phần nào về điều mà sư phụ tôi đang nói. Thậm chí tại quê nhà của tôi, các tiểu thuyết trinh thám cũng rất phong phú. Những thám tử nổi tiếng trong các cuốn tiểu thuyết đó thường hay thể hiện trí tuệ phi thường của họ bằng cách tập trung vào hai dạng câu hỏi này, nhưng nếu các pháp sư được đưa vào phương trình thì có rất ít lý luận trong đó có thể dùng được. Khi nhận thấy rằng một số pháp sư có thể làm được những việc như đi xuyên qua các bức tường, hoặc bay trên không trung, các phương pháp mà họ có thể sử dụng để gây án gần như là vô hạn.
"Thế nhưng, 'whydunnit' - 'Động cơ gây án là gì' thì có thể là một ngoại lệ." Sư phụ tôi chậm rãi bổ sung. "Ví dụ, cho dù khác với Khởi Nguyên, nhưng Thuộc Tính của một người vẫn bắt nguồn từ tính chất của người đó. Ma thuật cũng không ngoại lệ. Đối với pháp sư, những người đã dấn mình vào câu chuyện ma thuật từ trước khi được sinh ra, bất kể họ có chống đối hay tiếp nhận thì nhất định nó cũng sẽ xâm thực vào tận sâu bên trong họ. Theo ý nghĩa đó, chẳng có giống người nào nói dối kém như pháp sư cả."
Trong khi nói từ tốn, thầy vẫn chôn chặt ánh mắt của mình xuống dưới sàn nhà. Có lúc quét bụi bằng một cái bàn chải nhỏ, có lúc săm soi sàn nhà qua kính lúp, thầy vẫn vùi đầu vào chiến đấu với mớ chất lỏng bí ẩn của mình. Có lẽ do độ tập trung của thầy quá cao, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán thầy, khiến thầy cứ cách mỗi lần lại lau trán bằng lưng bàn tay.
"Vậy nên, cho dù không thể làm sáng tỏ thì tôi cũng tin mình sẽ tiếp cận được gần nó hơn."
"Bằng cách này ư?" Luvia tiếp tục nhấn mạnh câu hỏi của mình.
Không phải cô ta không hiểu những gì mà sư phụ tôi nói, mà là giống như cô đang buộc thầy chứng minh điều đó với cô. Trước sự khiêu khích của cô, thầy rút cuộc cũng ngước lên.
"Ví dụ, nếu là Ma Thuật Bảo Thạch của nhà Edelfelt..."
Vẻ mặt của Luvia rõ ràng đang nhăn lại.
"Mối quan hệ giữa đá quý và ma thuật có từ thời Lưỡng Hà và Ai Cập cổ đại... Ngắn gọn thì, nó phát sinh gần như là cùng lúc với lịch sử nhân loại, bắt nguồn từ những huyễn tưởng về đá quý. Ngay từ đầu, đá quý đã là một biểu tượng của nhà vua, và cũng được sử dụng để bào chế thuốc trường sinh bất lão như trong thuật luyện đan và giả kim thuật. "Sách Khoáng Vật Aristoteles" là một ví dụ điển hình, và "Tự Nhiên Học" của Hildegard[28] nói về việc phân chia mọi loại đá theo bốn nguyên tố, bốn tính chất cơ bản, bốn loại chất dịch cũng là một bộ sách nổi tiếng nữa."
Tôi có nhớ những tác phẩm mà sư phụ nói đến.
Quả thực "Sách Khoáng Vật Aristoteles" là một cuốn sách mang ý nghĩa lớn lao đối với lịch sử ở thế giới mặt trước[29], đặc biệt là nó tổng hợp những ghi chép về 72 khoáng vật, chứ không chỉ đơn thuần là giải thích về khoáng vật và dược liệu, và nó còn nói về nguồn gốc của Đá Quyền Lực [Power Stone].
...72, lại nữa.
Tôi biết đây là một con số có ý nghĩa trong ma thuật, nhưng với cường độ xuất hiện như thế này, nó bắt đầu trở nên giống như một con số bị nguyền rủa.
"Tuy nhiên, theo như tôi quan sát bùa Gandr lần trước, thì trái lại, ma thuật đó của cô gần với các nước Bắc Âu hơn. Sử dụng vật trung gian là Bảo Thạch, phủ nhuộm chúng bằng máu và chất dịch của bản thân để lưu chuyển ma lực của chính mình, ta nên coi nó là một ma thuật Rune đặc thù mới phải. Chắc hẳn cũng vì nguyên cớ tương tự mà cô lại đọc thần chú bằng tiếng Anh. Vốn dĩ Rune là một hệ thống ma thuật đã suy thoái, nhưng nhà Edelfelt đã khai mở một cảnh địa mới bằng cách trộn lẫn nó với Bảo Thạch. Nếu nói đến kết quả của nó thì, không như các kiểu quý tộc, đặc tính đó của cô chẳng phải là thứ có giá trị huy hoàng rực rỡ như những viên Bảo Thạch để mà tự hào đâu."
"Dừng lại ngay!"
Tiếng hét của Luvia đã đặt dấu chấm hết cho phần giải thích của sư phụ tôi. "Nếu còn nói nữa là ông sẽ chẳng còn lại một hạt bụi nào đâu đấy."
Dường như sự tức giận của cô tính đến lúc này đã tăng lên gấp đôi - không, nó thật ra không còn có thể đem ra so sánh. Toàn bộ cơ thể cô phát ra một cơn thịnh nộ khát máu không thể so sánh với bất cứ điều gì trước đó. Ngay cả tôi, dù không phải là mục tiêu của sự giận dữ đó, cũng theo phản xạ lùi ra khỏi cơn bùng nổ của cô.
Nhưng hoàn toàn ngược lại,
"...Liệu ta có thể hiểu là ngươi đang đe dọa bạn của ta không nhỉ?" Orlocke Caesarmund lên tiếng, trên môi biểu lộ một chút tiếu ý.
Dĩ nhiên, không thể nào Luvia lại quên mất rằng Orlocke đang ở trong phòng này. Nhưng, không thể lờ đi câu nói của ông, lông mày của cô nhăn lại.
"Bạn của ông ư?"
"Đúng thế. Một con người trẻ tuổi rất có triển vọng đấy. Ta nghĩ, cậu ta mà bị tan xác ở đây thì đáng tiếc lắm. Có gì phi lý không hả?" Orlocke không kiềm chế được tiếng cười khùng khục trong khi hỏi.
So với lúc mà hai người gặp nhau lần đầu tiên trong tiền sảnh của Lâu Đài Biệt Cư thì hiện tại dường như vị trí của họ đã bị đảo ngược hoàn toàn. Lần trước thì Orlocke bị bóc mẽ bí mật của mình, lần này thì đến lượt cô ta bị lộ bộ mặt thật của mình ra.
Bị đẩy lui bởi tiếng cười kinh dị như đầu lâu đó, cô gái tóc vàng buộc lòng phải cất những viên ngọc quý đang cầm trở lại vào trong túi. Khi làm vậy, cô quay lưng lại với sư phụ tôi.
"Tôi hiểu rồi. Hẳn ông đúng là một người yêu thích ma thuật. Theo nghĩa nào đó, chẳng có gì phải ngại khi nói ông là một kẻ cầu đạo đấy." Luvia nói, ngực phồng lên vì giận dữ. "Thế nhưng, nếu xét từ ý nghĩa thực sự của ma thuật, ông chính là một kẻ phá hoại ma thuật thì đúng hơn."
Nghe thế, sư phụ tôi tỏ vẻ vô cùng khó khăn. Đó là một vẻ mặt bí ẩn, như thể thầy đã ăn phải thứ gì đó cay đắng khó quên.
"...Ngày trước, thầy của tôi đã từng nói điều tương tự."
"Vậy thì chắc chắn đó là một người thầy xuất sắc đấy."
"Dĩ nhiên rồi. Với tư cách một pháp sư, không ai có thể xuất sắc hơn ông ấy. Đó là người duy nhất thực sự thích hợp với cái tên El-Melloi. ...Đã từng là thế." Nhìn gương mặt cau có của sư phụ tôi khi nói, tôi tự nhiên lại thấy nín thở.
Kayneth El-Melloi Archibald.
Sư phụ của sư phụ tôi.
Và có thể... chính là đối thủ mà sư phụ đã sát hại.
Nhưng Luvia không nạt nộ thêm gì nữa, cô trở ra khỏi phòng.
"Một ngày tốt lành nhé. Tôi cầu nguyện cho ông tìm thấy cả mảnh vỡ của một vì sao trong khi đang bò lê trên mặt đất."
"Hẹn gặp lại", Flue vẫy tay gửi lời chào tạm biệt khi ông cũng rời đi để đuổi theo cô gái tóc vàng.
Khi hai người đó hoàn toàn ra khỏi phạm vi nghe được,
"Ông đã cố ý khiêu khích cô ta đấy à?" Sư phụ tôi nói, quay mặt sang Orlocke.
"Không, ta chỉ muốn trả đũa thôi. Nhờ có cậu mà ta đã được thống khoái đấy. Khà khà, bộ mặt của cái đứa con gái linh cẩu đó đã méo xệch khó chịu đến thế cơ mà. Lồng ngực ta thoải mái như vừa được tăng thêm tuổi thọ đây này." Ông già nói với vẻ hài lòng.
Có thể lúc này ông ta tỏ ra trẻ con, nhưng chỉ một bước đi sai lầm sẽ là nhận được lời mời của tử thần.
"…Sư phụ."
Khi nghe tôi gọi, sư phụ tôi đưa một bàn tay lên vỗ về cái đầu đang đội mũ chùm của tôi.
Thầy không nhìn tôi, nhưng bàn tay thầy vỗ nhẹ lên đầu tôi với một sự dịu dàng không thể ngờ tới.
"Rất cảm tạ ông vì đã bảo vệ tôi," Sư phụ tôi nói. "Nhờ đó mà tôi cũng đã phát hiện ra một điều."
"Hô?" Mắt Orlocke nheo lại, một lần nữa bị lạc giữa một mặt biển toàn nếp nhăn.
"Liệu tôi có thể hỏi ông một câu không, Orlocke-dono?"
Chương 4[]
——Tưởng tượng bản thân là một công tắc.
Tất cả các pháp sư đều có những cách thức khác nhau.
Một số người tưởng tượng ra sự rơi của một cái búa tóe lửa, và một số khác tưởng tượng thứ gì đó đâm xuyên qua tim của chính họ. Một số lượng pháp sư nhiều đến bất ngờ lụy vào khoái cảm, và trong số đó, có nhiều người buộc phải dùng đến thuốc. Nhưng dù là dùng phương pháp nào, những tưởng tượng này là những công tắc để chuyển đổi các dây thần kinh trong cơ thể của pháp sư thành các Mạch Ma Thuật.
Bằng cách kích hoạt những Mạch Ma Thuật này, pháp sư kết nối bản thân mình với nền móng là Đại Ma Thuật Thức, và tự biến đổi chính họ thành "một hệ thống dùng để nhận thức về điều Thần Bí".
Đối với Flue, công tắc đó là cơn khát.
Đi bộ qua sa mạc. Sự khô khốc trong cổ họng của ông là điều mà ông chẳng thể làm gì được. Đã từ lâu, mồ hôi của ông đã ngừng chảy, và thậm chí đôi mắt của ông cũng đã ngừng điều tiết nước. Cho dù chỉ vì một giọt nước, ông cũng sẵn sàng phạm bất cứ tội ác nào-
Không, ý nghĩ đó sẽ chỉ đưa đến tử vong do mất nước mà thôi.
Bằng cách coi một cơn khát đơn thuần như năng lượng của mình, các dây thần kinh của ông kích hoạt.
Bỗng nhiên, ông bị bủa vây bởi cảm giác mí mắt bị nổ tung.
Ông biến đổi.
Cực hình biến thành khoái lạc. Cơn khát trở thành sung sướng.
- "
Lead me !"
Với câu niệm đó, thế giới thay đổi cùng với ông.
Sáu con dao được phóng vào trong không khí, chúng chìm xuống sàn nhà bằng đá như thể nó chẳng khác gì miếng bơ, hình thành nên một vòng tròn ma pháp.
Nhưng, ba trong số những con dao đã cắm vào đá vẫn đang rung lên.
Chúng đang gặp phải kháng cự. Khi hai hiện tượng siêu nhiên tiếp xúc nhau như vậy, kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của mỗi bên. Đó là lý do tại sao, đối với Flue, thoái lui là điều không đáng được cân nhắc tới. Làm cho Od bên trong cơ thể mình bùng lên một lần nữa, ông biến nó thành ma lực và thúc nó vào những con dao một lần nữa.
Rồi, sau khi đánh vào sàn đá,
- "
Lead me, now !"
Đáp lại tiếng hét của Flue và sự tràn ngập của ma lực, những con dao được tung lên.
Rời khỏi sàn nhà, chúng hung hăng cắm vào một bức tường gần đó.
Hoặc bề ngoài trông như vậy. Nhưng khi những con dao cắm vào tường, thứ đáng lẽ là bức tường thì lại bắt đầu mờ dần. Khi những con dao bị trượt ra ngoài và rơi xuống đất, bức tường biến mất hoàn toàn.
Nói cách khác, bức tường mà họ nhìn thấy ở đó không có thật.
Kết giới vốn được thiết lập một cách chặt chẽ, trước "sự dẫn đường" từ thuật chiêm tinh của Flue, hoàn toàn bị xóa sổ.
"Làm tốt lắm."
Một giọng nói kiêu kỳ cất lên bên cạnh ông. Chốc lát sau, một bàn tay trắng nhạt hướng về phía bóng tối trước mặt họ.
- "
Call ."
Trên tay của Luviagelita Edelfelt, một ngọn lửa tím được thắp lên. Tuy trông như sẽ đốt cháy bàn tay trắng nhạt của cô, nhưng hình như nó lại không hề nóng khi mà ánh sáng của nó khiến cho da của cô đổi màu và lan đến những chỗ tối.
Flue ngồi bịch xuống sàn nhà cùng với một tiếng thở dài mệt mỏi.
"Mệt quá chừng."
Vừa nói, ông vừa lau mồ hôi trên trán bằng lưng bàn tay.
Trên thực tế, việc mà Flue vừa làm cần đến sự tập trung tối đa, điều đó được phản ánh qua bộ dạng trông như già đi mười năm của ông. Hiển nhiên, chuyện này không xảy ra mỗi lần ông sử dụng ma thuật. Đây chẳng qua là do kết giới trong Lâu Đài Biệt Cư quá mạnh.
Sau khi rời khỏi chỗ nhóm của Lord El-Melloi II, cả hai bắt đầu lùng sục mọi ngóc ngách của lâu đài. Kéo theo ông ta cùng với cơn tam bành của mình, Luvia xúc tiến đến mức mà bọn họ không bỏ hề qua thậm chí là chỗ bụi nhỏ nhất trong quá trình tìm kiếm. Việc điều tra của họ thật ra kỹ đến nỗi Flue có cảm giác như những gì họ đang làm không khác mấy so với chính cuộc điều tra của Lord El-Melloi II.
"-Đau thật..."
Flue bắt đầu xoa bóp quanh cổ họng mình.
Đây chắc là một phản ứng của cơ thể ông khi sử dụng ma thuật. Ngoài chuyện sử dụng ma thuật trong Lâu Đài Biệt Cư là vô cùng khó khăn, thì việc sử dụng ma thuật quá mức đang làm cho ông đau đớn không chỉ trên cơ thể, mà còn vào tận các Mạch Ma Thuật của ông. Cảm giác đau đớn khi các khúc xương cọ vào nhau cứ càng lúc càng khó chịu đựng, dẫu biết rằng bản thân cơn đau này là không thật, mà chỉ là ảo giác phát sinh từ các Mạch Ma Thuật của ông.
"Nếu ông là pháp sư, thì cơn đau đó cũng là sự mê ly ngây ngất đấy."
Luvia nói như thể điều đó là đương nhiên. Rồi cô gật nhẹ một cái,
"Phải rồi. Cánh cửa sẽ mở ra trước mặt người nào có đủ tư cách. ...Nếu đã là pháp sư, thì đó là chuyện đương nhiên thôi."
Cô nói như đang cố gắng ám chỉ một điều gì đó.
...Đúng là thế nhỉ?
Đối với ma thuật, bí mật chính là mạng sống. Bản thân điều Thần Bí vẫn còn Thần Bí thì mới có ý nghĩa, chứ một khi đã bị người khác biết thì nó sẽ bị mất đi sức mạnh tương ứng. Tất nhiên nếu ở mức độ biểu diễn một phần trước những người cùng là pháp sư thì chẳng có gì thay đổi cả, nhưng sự sâu sắc của Lord El-Melloi II lại tiến quá gần đến bản chất của nó. Đơn thuần là chỉ ra lịch sử và khởi nguồn của ma thuật thôi thì không sao. Nhưng cái hành vi diễn dịch ma thuật đó ra thành tư tưởng và tâm ý của những pháp sư được quy định theo nó ấy thì...
Flue cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
(…Không biết anh ta có nhận ra điều này không nhỉ?)
"Xét từ ý nghĩa thực sự của ma thuật, ông chính là một kẻ phá hoại ma thuật thì đúng hơn."
Những lời đó của Luvia đã nêu lên một cách chính xác về Lord El-Melloi II.
Dù là một cách có ý thức hay không, thì chính vì nhận ra điều đó mà Luvia đã giận dữ đến mức ấy.
Lord El-Melloi II còn giống một tên trộm hơn cả nhà Edelfelt, những kẻ được mệnh danh là loài linh cẩu thanh nhã nhất trên mặt đất. Nếu có thể từ bản chất của ma thuật mà nhìn thấu cả cách tồn tại của các pháp sư đời sau, thì theo một nghĩa nào đó, nó chẳng khác gì việc thu nạp từ ma thuật cho đến những điều Thần Bí trong tương lai của họ vậy.
...Đó là Lord đấy sao?
Đỉnh cao mà chỉ có duy nhất 12 người ở Tháp Đồng Hồ.
Hay những kẻ dị đạo... những kẻ phá hoại không chịu ở yên trong cái khuôn khổ đó.
Với ngọn lửa màu tím soi sáng trên tay, Luvia cẩn thận bước xuống các bậc thang hiện ra từ trong bóng tối. Ngay cả động tác bước đi đơn giản này cũng thể hiện sự thanh lịch như những bước nhảy khiêu vũ. Chẳng mấy chốc, họ gặp một cánh cửa bằng gỗ, và cô không hề do dự mở nó ra.
"…Cái gì vậy chứ?"
Flue nhanh tay bịt hết mũi miệng. Trong phòng xộc lên một mùi hôi thối. Nếu phải tả bằng lời, ông sẽ nói rằng nó có mùi như thể ai đó đã moi ruột gia súc, nhào trộn mớ hổ lốn nội tạng và các bộ phận linh tinh với nhau, và để cho nó bị thối rữa cả mấy năm. Dù đã bịt mũi lại nhưng mùi này vẫn chui được vào trong phổi họng của Flue, và ông phải gắng gượng để ngăn cơn buồn nôn.
"Xem ra là đúng rồi đấy nhỉ."
Luvia, cũng với một tay che mũi, cau mày nói.
So với các phòng khác trong lâu đài, căn phòng này chật hẹp hơn nhiều. Căn phòng không cửa sổ này có một cái giường, một cái bàn làm việc, một chiếc nhẫn bạc và một chiếc cốc đồng. Xếp trên kệ là nhiều loại dụng cụ nhỏ mà không nghi ngờ gì là dùng để sử dụng với ma thuật . Ngoài ra còn có một số món đồ có mũi nhọn và lưỡi dao ở xung quanh căn phòng, chúng bị phủ lên những vết đen và rỉ sét.
...Là dụng cụ tra tấn sao?
Flue nhớ đến những dụng cụ tra tấn mà ông từng thấy hồi xưa, kiểu như Trinh Nữ Nuremberg và Con Bò Sicilia[30]. Điều khó chịu nhất là ngay cả những dụng cụ tra tấn này cũng được khắc họa và phỏng theo Thiên Sứ. Bộ mặt đáng yêu vốn có của Thần Ái Tình bị lấm màu đen của máu khô, trông gớm guốc không thể nào ngờ được.
Có vẻ như đây là phòng riêng của Geryon Ashborn.
Bất kể là đồ dùng nội thất, đồ nghề hoặc dụng cụ tra tấn, tất cả đều mang hình ảnh Thiên Sứ. Kích thước nhỏ của căn phòng này đem lại cảm tưởng như bị sa xuống tận đáy của một đầm lầy sâu hút.
"Không biết đây có phải nơi phục hồi Khắc Ấn Ma Thuật không?"
"Hay có khi là chỗ để Geryon Ashborn lột bỏ các Khắc Ấn Ma Thuật cũng nên." Luvia đáp.
Bỗng nhiên, hình ảnh tưởng tượng về những dụng cụ tra tấn được sử dụng để lột da của các nạn nhân trong các cuộc săn lùng phù thủy bất giác hiện ra trong tâm trí của Flue. Ngay cả một người lính đánh thuê dày dặn kinh nghiệm cũng cảm thấy ớn lạnh trước câu nói đó.
"…Một bức hình chụp ư?"
Đôi mắt của Flue dừng lại ở bức hình nằm đơn độc trên kệ. Đó là một bức tranh nhỏ được vẽ rất chi tiết, đến nỗi khiến ông nhầm tưởng nó là một bức hình chụp.
Tuy nhiên, không để ý gì đến Flue, Luvia tiến thẳng đến cái bàn làm việc. Trên cái bàn phủ đầy bụi có vẽ rất nhiều vòng tròn ma thuật.
"...Đây là thuật thức cơ sở của Ashborn."
"-Ê, này!"
Dù không kể tới vị trí, những vòng tròn ma pháp này có khả năng nguy hiểm khá cao. Nhưng, dường như chẳng bận tâm gì hết, Luvia quẹt một ngón tay lên một trong những vòng tròn này.
Xoẹt một cái, vòng tròn phản ứng lại bằng một tia chớp. Như thể bị hút vào, tia chớp lượn vòng lên trên và đánh trúng một chiếc nhẫn trên ngón tay của Luvia trước khi bị nuốt vào bởi viên ngọc trên chiếc nhẫn. Làm như không có gì xảy ra, Luvia tiếp tục xem xét vòng tròn ma pháp.
Thấy có chữ được viết xung quanh vòng tròn, Luvia đọc to.
"Asmodeus, Belphegor, Baal, Adramelech, Lilith ..."
Khi nghe thấy cô đọc những cái tên tà ác, Flue nhướng mày.
"Là ác ma... thiên thần sa ngã à? Có thể nào là Cây Tà Ác - Qliphoth [Tree of Death] chăng?"
"Quả nhiên là ông hiểu rồi hả? Mặt trái của Cây Sinh Mệnh - Sephirot, biểu tượng của Kabbalah... Thay vì thiên sứ và đức hạnh để con người đạt đến thiên đường, nó lại là một minh họa về sự xếp đặt những Thiên Thần Sa Ngã và thói xấu để con người rơi xuống âm phủ. Có vẻ như đây chính là thuật thức cơ sở trong Lâu Đài Biệt Cư đấy."
Ngừng nói một lúc, Luvia mỉm cười như vừa mới đi ngang qua một bông hoa xinh đẹp.
"Phải... Thế này thì đầu mối đã có đủ rồi. Hãy để tôi cho mọi người thấy cách làm của nhà Edelfelt nào."
Rosalind Istari dành toàn bộ thời gian của mình ở trong phòng riêng.
Làm theo chỉ định của anh trai, cô bé dùng bữa sáng và bữa trưa trong phòng mình, và không làm những việc kiểu như bước ra ngoài ngưỡng cửa. Bình thường thì trái tim non nớt của em sẽ không chịu yên khi bị mắc kẹt quá lâu trong một căn phòng, nhưng sau vụ án xảy ra với Hishiri Adashino, em không mong muốn gì hơn là ở nguyên một chỗ. Nhờ có sự can thiệp của anh trai mà Rosalind đã tránh được việc phải nhìn thấy cảnh tượng đó, nhưng sự ra đi của người phụ nữ xinh đẹp đã từng khiến em sinh lòng ngưỡng mộ, giờ đây đang đè nặng trong lồng ngực của em.
Là ai nhỉ...?
Câu hỏi ai đã gây ra chuyện đó cứ luẩn quanh không dứt trong đầu em.
Cô bé chẳng cần phải nghĩ nhiều để nhận ra rằng, bất cứ pháp sư nào cũng đều có khả năng là thủ phạm. Đối với một người được nuôi nấng trong một môi trường mà ma thuật được coi trọng hơn sinh mạng con người, điều này thậm chí còn không phải là một nghi vấn. Hơn nữa, em thậm chí không thể đặt anh trai mình bên ngoài danh sách những kẻ tình nghi. Em hoàn toàn hiểu rằng anh trai em có thể hóa thành một con quái vật hoặc quỷ dữ để bảo vệ em - một sự thật mà em buộc phải đau lòng thừa nhận.
Tuy nhiên, cô bé không làm gì khác ngoài lặng lẽ chờ đợi trong phòng.
Em không làm gì khác ngoài ngồi đó, cúi nhìn xuống trong thất vọng về sự bất lực của mình.
"Em sao vậy? Nếu thấy khó chịu thì để anh pha trà cho em nhé. Nhưng anh lại chẳng có hồng trà mà chỉ mang theo toàn lục trà thôi."
Vệ sĩ bảo vệ em thay cho anh trai của em cất tiếng với giọng thân thiện.
"Em xin lỗi. ...Seigen-san."
"Ha ha, em đừng băn khoăn. Chỉ cần được làm phục vụ cho một tiểu thư xinh đẹp như em là anh vui lắm rồi!" Seigen nhắm mắt lại, vỗ nhẹ lên ngực mình.
Trong khoảng vài cái chớp mắt, cô bé không thể gọi đây là... sự khôn khéo. Chẳng đáng ngạc nhiên khi anh ta lại thêm vào cử chỉ tự vỗ ngực mình. Tuy đây là lần đầu tiên em dành nhiều thời gian như thế này trong cùng một phòng với một người khác giới mà không phải là họ hàng của em, không hiểu sao sự hiện diện của vị Yamabushi này khiến em cảm thấy thoải mái.
"Heine-nii-san có nói gì với Rosalind-chan không vậy?"
"Không ạ. Anh ấy chỉ nói, nếu em ở cùng với Seigen-san thì sẽ có thể an tâm thôi."
"...Thế à."
Trên miệng của Seigen nở ra một nụ cười có phần chua chát.
Rosalind tin vào lời của anh trai mình một cách ngây ngô đơn giản.
Sau khi phát hiện ra vụ giết Hishiri Adashino, người đầu tiên mà Heine liên hệ là Seigen. Mặc dù Heine phải ra ngoài để điều tra thêm về vụ án, nhưng chừng nào vị Yamabushi vui tính này còn ở bên Rosalind, thế giới dường như dễ thở hơn đối với cô bé.
"Anh đã có chuyện gì với Onii-sama sao ạ?"
"...Không hề. Không không không không không hề. ...Bởi vì, có bị Heine-nii-san nhìn thấu thì anh cũng chẳng sao đâu."
Sau khi ngừng một chút, Seigen nhún vai công nhận.
"Anh vốn đã từ bỏ ma thuật rồi."
"Anh đã từ bỏ?"
"Đúng như anh nói đấy." Seigen nhẹ nhàng phủi lên ống tay áo khác thường của mình.
"Về cơ bản, ma thuật có vẻ là thứ chỉ được truyền cho một người con. Nhưng mà, cha anh lại đi quá giới hạn của một người khổ hạnh để làm một kẻ đào hoa. Ông ấy có hơn 10 đứa con do vợ bé sinh ra." Seigen nhe răng cười nói.
Mặc dù không còn mấy phổ biến ở thời hiện đại, nhưng nếu ta nhìn lại quá khứ, có rất nhiều ví dụ về các vị vua hoặc các gia đình quyền lực có số lượng con cái lên đến hàng trăm.
"Có lẽ vì thế mà ông ấy nghĩ thế này: Để lựa chọn, hãy khiến cho những đứa con cạnh tranh với nhau."
"Cạnh tranh ạ?" Biểu cảm của Rosalind biến đổi.
"Phải. Mà, vì vốn là Yamabushi nên bọn anh chẳng hề thiếu địa điểm tu hành. Ma thuật càng truyền cho nhiều người thì sức mạnh càng bị giảm bớt đi, nhưng trong trường hợp của phái Shugendou thì nó có một nửa là tôn giáo. Những kỹ thuật sơ đẳng dù có được chia ra mà truyền lại thì cũng chẳng gây ảnh hưởng gì mấy."
Thu nhận nhiều môn đệ, nhưng chỉ truyền những bí quyết thật sự trong ma thuật cho rất ít người trong số đó.
Tất nhiên, đó là một phương pháp chính xác theo quan điểm của pháp sư. Chuẩn mực chung nhất là các gia tộc chọn ra một đứa trẻ, và rồi không dạy cho những đứa trẻ khác biết về sự tồn tại của ma thuật. Tuy vậy, các địa phương và các trường phái ma thuật khác nhau đã sinh ra đủ mọi sai khác so với chuẩn mực đó. Có vẻ như gia tộc của Seigen là một trong những sai khác đó.
"Mà, vốn dĩ ma thuật Viễn Đông đã là một hệ thống phong phú khác với phương Tây. Trong trường hợp môn phái của anh, có vẻ nó chịu ảnh hưởng đáng kể từ phương Tây. Cái Khắc Ấn Ma Thuật gì đấy cũng được kế thừa nữa... Thế, nếu vậy thì ai sẽ được truyền lại Khắc Ấn Ma Thuật đó đây? Bởi vì anh đã thất bại, nên chuyện đó sao cũng được hết. Dù rằng cũng tương đối thích ma thuật, nhưng anh lại chẳng hứng thú gì lắm với cái xu hướng Căn Nguyên mà tất cả mọi người đều căng mắt ra mà theo đuổi ấy. Hay có lẽ nên nói rằng, anh chẳng có tài năng đối với cái giai đoạn mà mình không hứng thú. Mặc dù sư phụ anh, và cũng là cha anh có buồn lòng, nhưng ông cũng nhận biết được điều đó qua trực giác rằng mình chẳng thể làm gì cả. Với lại, còn vì có anh trai của anh ở đó nữa."
"Anh trai của anh ạ?" Giọng của Rosalind tỏ ra thích thú hơn. Chẳng có gì lạ, vì tình huống mà Seigen đang đề cập bắt đầu có vẻ giống với tình huống của em.
"Phải. Chẳng biết liệu có đến tầm cỡ như Heine-nii-san hay không, nhưng anh ấy đã làm được những điều thật lớn lao. Các anh em khác cũng buộc phải thừa nhận anh ấy là người xuất chúng nhất. Nói chung, với người xuất thân từ một dòng dõi pháp sư thì như thế sẽ tốt hơn là cứ tiến hành cái trò Cổ Độc ấy."
Cổ Độc.
Trong trường hợp này thì đây là một thuật ngữ trong ma thuật. Một pháp sư thu thập một số loài vật, thường là rắn và nhện độc, đôi khi có cả rết và bọ cạp khổng lồ. Người đó sẽ cho tất cả bọn chúng vào một cái nồi nhỏ và buộc chúng phải giết chóc và ăn thịt lẫn nhau. Con nào sống sót cuối cùng sẽ được sử dụng làm vật dẫn cho lời nguyền. Đó là một việc làm khá phổ biến ở lục địa Châu Á, và cũng không chỉ giới hạn ở các loài độc vật. Thậm chí còn có những ví dụ về việc con người làm điều tương tự với mèo, chó, và cả sói.
Trong trường hợp này, Seigen muốn nói đến chuyện cho tất cả các sư huynh đệ đồng môn đấu đá nhau cho đến chết, rồi người sống sót cuối cùng được trở thành truyền nhân. Trong những gia tộc truyền dạy ma thuật cho nhiều đứa con thì việc làm này khá phổ biến. Có thể nói rằng việc cha của Seigen đã không chọn làm theo phương pháp này là một điều rất may mắn đối với Seigen và những người anh em của anh.
"Thế nhưng. Trong trường hợp này, nó đã chuyển thành một tai họa." Seigen cười yếu ớt. "Đó là bởi vì tất cả những người kém cỏi đều sống sót. Và đã có những kẻ sinh lòng oán hận. Thêm nữa, vì đơn độc thì chẳng làm gì được anh ấy, nên họ hợp thành số đông... Thật nực cười phải không? Ngay khi làm một chuyện như vậy, thì họ đã chẳng còn tư cách để làm người thừa kế nữa rồi... Thế là, trước khi nghi thức cấy ghép Khắc Ấn Ma Thuật chính thức hoàn thành, họ đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ."
Rosalind nín thở.
"Kết quả thật bi thảm. Anh ấy đã kiên trì kháng cự, và rồi khi sư phụ đến kịp lúc, những người tập kích cũng như có liên quan đều bị tiêu diệt hoàn toàn. Thật ngốc nghếch làm sao. Một cách tình cờ, anh đã bảo họ rằng việc chuyển giao Khắc Ấn ấy thì sao cũng được, và trốn xuống thị trấn chơi, rồi trở thành người duy nhất thoát khỏi cảnh đó. Gian chính của ngôi chùa đã bốc cháy dữ dội, cả anh trai lẫn sư phụ anh đều bị thiêu đốt. Họ đã làm gì vậy cơ chứ?"
"..."
"Tuy vậy, anh trai anh đã được cấy ghép phần lớn Khắc Ấn Ma Thuật nên vẫn còn sống sót. Em hiểu chứ? Đó là loại lửa được sử dụng trong phái Shugendou. Bởi vì vốn dĩ người tu hành vẫn làm cái chuyện đi trên lửa than, nên họ có tính kháng cự với lửa, kể cả với ngọn lửa Thiên Cẩu thiêu đốt. Dù đến cả xương cũng bị cháy hết thành than, nhưng Khắc Ấn Ma Thuật đã giữ cho anh ấy sống, và anh ấy vẫn còn cử động được. Phải, đã nói đến đây thì hẳn em cũng biết, anh trai anh đã nhờ anh làm chuyện gì rồi."
Giọng của Seigen có một sức nóng khó tả. Như thể anh ta không hề muốn nói đến chuyện này, nhưng anh lại không thể ngăn không cho chính mình nói ra.
"Anh ấy bảo anh... hãy kế thừa Khắc Ấn Ma Thuật này. Vì người sở hữu nó là anh ấy đang sắp chết, nên hẳn em hiểu Khắc Ấn Ma Thuật đó đang trong tình trạng thế nào nhỉ? Dòng họ của anh nói chung cũng chẳng có gì đáng kể. Tuy nói là đã hơn 10 đời, nhưng nó vốn chỉ là một nhánh tộc. Hãy cứ giao phó những rắc rối đó cho tộc chính có phải hơn không? Thế mà, không ai, kể cả anh ấy nghĩ đến chuyện đó cả. Chuyển giao Ma Thuật, chuyển giao điều Thần Bí, chuyển giao Khắc Ấn Ma Thuật, nhắm tới con đường dẫn đến Căn Nguyên. Ôi trời, sao phải làm thế cơ chứ?"
Nghe như Seigen đang khạc ra những từ đó.
"Tất cả mọi người, cả anh ấy đều thật ngốc nghếch. Toàn một lũ ngốc nghếch."
Lại mân mê ống tay áo của mình, anh nhăn mặt lại. Tuy nhiên, vẻ mặt cau có ấy dần dần tan biến trong một tiếng thở dài nhè nhẹ.
"A, nhưng dù sao đó vẫn là lời mà anh trai anh đã nhờ cậy, nên anh muốn xoay sở để làm được gì đó đối với Khắc Ấn Ma Thuật này. 'Có lẽ, nếu là ở đây thì mình sẽ có thể tìm ra được cách nào đó...' anh đã nghĩ vậy đấy."
"...Anh muốn tìm ra được cách nào đó à?"
"Không, nhưng đành phải vậy thôi. Cho dù có phủ nhận việc đó thế nào thì anh cũng chẳng còn cách nào khác. Cho dù không có cả tài năng lẫn bản tính, hệt như lúc đầu bỏ cuộc, nhưng sau khi cha và anh trai đều đã chết, anh chẳng còn lựa chọn nào ngoài thừa hưởng Khắc Ấn đó. Thật khôi hài phải không?"
Khuôn mặt của Seigen lại nhăn nhó.
Mặc dù anh không thể thích nổi ma thuật, nhưng việc tu hành đối với anh cũng không lấy gì làm khắc nghiệt. Dẫu cuộc sống hòa chung với những con thú ở chốn núi sông có hà khắc bao nhiêu, thì trong đáy lòng anh vẫn đong đầy sự sung túc đầy đủ. Vốn dĩ, Shugendou là sự trộn lẫn giữa những tôn giáo và ma thuật độc đáo với nhau, nên họ cũng không bị ám ảnh bởi riêng những điều Thần Bí như các pháp sư ở Tây phương.
Mùi của đất ở trong rừng sâu.
Hoặc, ngắm tuyết rơi dày trong khi tụm lại cùng với những con thú hoang để giữ ấm.
Bầu trời lúc nào cũng cao vút, và những vì sao tỏa sáng lấp lánh. Ngay trong cái đêm mà bệnh tật đẩy Seigen đến bờ vực của cái chết, khiến cho anh mất đi một con mắt, anh trai của anh đã đem đến cho anh thuốc chữa bệnh tự nhiên. Thứ thuốc đắng đến mức làm cho lưỡi của anh tê dại, nhưng với anh, nó là thứ ngon miệng nhất mà anh từng được nếm.
"Anh ấy thường hay nói về những chuyện như 'vui sướng khi trải rộng nhận thức ra khắp cơ thể mình', hay 'bắt lấy cả những đám mây kia'. Dù anh không hiểu, nhưng nếu như anh thừa kế Khắc Ấn Ma Thuật thì hẳn là trong đám con cháu của anh cũng sẽ có đứa nói ra điều tương tự như thế. Anh đã suy nghĩ theo cách đó. Nếu như có chuyện như vậy xảy ra trong tương lai, thì có lẽ cái chết của anh trai anh cũng là một chuyện có ý nghĩa."
Nguyên tắc hành động của Seigen đã được củng cố tại đó.
Tìm kiếm một người thừa kế thực sự, chứ không phải bản thân anh, một kẻ không thích hợp.
Giống hệt như Heine đã từng từ chối làm người thừa kế, rồi buộc phải trở lại do thể chất dị thường của Rosalind... Hoặc là hai chuyện đó có một mối quan hệ mang tính đối cực.
Có lẽ vì vậy nên anh ta mới thiết lập mối quan hệ với Heine Istari.
Như một sự thay thế cho mối ràng buộc mà anh đã bị mất vậy.
"...Chuyện là như thế ạ." Rosalind thu ánh mắt lại trong khi nói.
"Ha ha ha. Anh đã bị Onii-san nhìn thấu mất rồi. Việc anh ấy chủ động nói chuyện với anh đã làm anh phải bất ngờ đấy."
"Tôi biết bản chất thật của anh."
Heine đột nhiên đến gặp Seigen sau vụ việc của Hishiri Adashino.
Trong khi Yamabushi đang sững người ra, anh nói tiếp.
"Anh thực sự rất ghét Khắc Ấn Ma Thuật đó, phải không?"
"Vậy thì anh giống tôi đấy."
Những lời nói đó đã đâm thẳng vào trái tim anh.
Đối với Seigen, người luôn mang trong mình một trái tim trống rỗng và bi thương, những lời nói đó thật sự khơi dậy một nỗi đau đớn trong anh. Nhưng bù lại, chúng cũng chữa lành vết thương nào đó còn đau đớn hơn thế nhiều. Đối với Tokitou Jiroubou Seigen, chỉ riêng nguyên nhân này cũng đã đem đến ý nghĩa cho chuyến đi của anh đến Lâu Đài Biệt Cư này.
"Em xin lỗi vì đã hỏi một chuyện khó chịu như vậy."
"Không không không." Seigen nói cùng với một động tác xua tay.
Sau khi làm một động tác vuốt mặt khiến Rosalind liên tưởng đến một con thú nhỏ, Seigen chùi bàn tay lên áo chùm của mình trước khi gõ nhẹ lên đầu cô bé.
"Mà anh cũng chẳng để tâm lắm đâu. Xét cho cùng thì nó là chuyện cũ rồi, một giấc mơ thuận tiện thôi ấy mà."
Một giấc mơ.
Bởi vì anh hoàn toàn tự mình quyết định sẽ dựa dẫm vào những người khác. Đối với Seigen, điều ích kỷ nhất mà anh có thể làm là giả vờ như mình là một pháp sư giống như những người khác.
Đó là lý do tại sao nó chỉ là 'một giấc mơ thuận tiện' đối với anh.
"Trước hết, ta cứ đợi Heine-nii-san quay trở về đã."
"... Vâng." Rosalind trả lời, không kìm được mà lỡ buông một tiếng ngáp nhỏ.
Như thể xấu hổ, cô bé lập tức che miệng lại.
"...Seigen-san nghĩ ai đã giết chết Hishiri-san thế ạ? Quả nhiên là lời nguyền của Ashborn chăng?"
"Anh cũng không biết sao nữa. Nếu là pháp sư thì việc để lại một lời nguyền như vậy cũng thật kỳ lạ. Nhưng nếu là Heine-nii-san thì anh ấy sẽ không thua một thứ như vậy đâu."
"...Vâng. Onii-sama là... của em mà..."
Đến đó, câu nói của em ngưng lại. Em ngả người ra ghế bành, hơi thở của em dần trở nên đều đều như đang đi vào giấc ngủ.
Sau khi phủ chăn lên người em, Seigen nhẹ nhàng xoa đầu cô bé đang say ngủ.
Heine Istari lại một lần nữa lang thang trong khu vườn phía trước Lâu đài Biệt Cư.
Có một khu rừng.
Tiếng lá cây xào xạc trên đầu làm liên tưởng đến tiếng cười của một mụ phù thủy.
"…Xem ra mình sẽ phải đi bên phải." Anh lẩm bẩm, tiếp tục bước trên con đường đầy lá rụng.
Luvia đã vào cùng phe với Chiêm Tinh Thuật Sư Flue, và đang tìm kiếm manh mối bên trong lâu đài. Heine quyết định tiếp cận theo hướng khác.
Thiên Sứ hóa thành con thú... nó chăm chú nhìn bầu trời phương Tây, và nuốt lấy mặt trời.
Heine đang ở một chỗ khác hẳn với chỗ mà anh đã đến đêm hôm trước, nơi mà thông điệp này đã xuất hiện trên lá thư mời của anh.
Có vẻ như tên Thiên Sứ của Hishiri Adashino chỉ đến một vị trí khác với những người còn lại.
"Tên thiên sứ" của anh và Lord El-Melloi II, cùng với Luviagelita Edelfelt là từ Cung Bảo Bình [Aquarius] đến Cung Song Ngư. Về khía cạnh chiêm tinh cơ bản, chúng chỉ theo hướng từ 300 đến 360 độ. Nói ngắn gọn, nếu phân chia bầu trời thành bốn mùa, chúng sẽ chỉ về hướng cuối mùa Đông. Từ đó, Heine có thể tính toán ra được một vị trí bằng cách vẽ một đường thẳng xuất phát từ phòng của mỗi người.
Nhưng Hachasiah của Adashino Hishiri cũng như Nanael của Orlocke mà anh đã bí mật dò ra trên tấm biển ở phòng ông ta đều thuộc Cung Bạch Dương, phương vị của chúng là từ kinh độ 0 đến kinh độ 30, và vị trí giao điểm cũng bị chệch đi.
Khi kiểm tra xem hướng đó dẫn đi đâu, Heine tìm thấy các bệ đài giống như những cái mà anh đã thấy ở vị trí lần trước. Quả nhiên, những bức tượng Thiên Sứ của nơi này cũng chẳng thấy đâu cả, nhưng một thông điệp y chang xuất hiện trên lá thư mời của anh.
Thiên Sứ hóa thành con thú... nó chăm chú nhìn bầu trời phương Tây, và nuốt lấy mặt trời.
Thông điệp không thay đổi gì cả.
Nhưng khi điều tra xung quanh, có những dấu vết trông như thể có thứ gì đó đã bị kéo lê trên mặt đất.
Suy nghĩ một hồi, Heine đặt hai tay lên một trong những bệ đá gần đó, và dùng hết sức để đẩy nó.
Sau một hồi cố gắng, bệ đá cuối cùng cũng dịch chuyển, để lộ ra một lỗ trống trên mặt đất. Từ lỗ hổng đó thổi ra một luồng gió nhẹ, ngược lên từ một cầu thang mất hút vào trong bóng tối phía dưới.
Không hẳn là bất thường khi các lâu đài cổ ở châu Âu đều có những con đường hầm bí mật, nhưng điểm khác biệt ở đây là đường hầm này sâu vô cùng.
"...Con thú đó đang ẩn náu ở trong đây chăng?"
Sau khi cân nhắc lựa chọn trong vài giây, Heine tự củng cố bản thân. Nếu nó biết được nơi trú ẩn của mình đã bị phát hiện, nó có thể di dời đi nơi khác. Cơ hội chỉ có một.
Heine từ từ đi xuống cầu thang.
Tiếng bước chân của anh vang rất to.
---Có phải Adashino Hishiri cũng đã tới nơi này?
Khả năng đó là rất cao.
Điều đó có nghĩa là, cô ta đã đến gần với bí mật của Lâu Đài Biệt Cư hơn chính anh. Và kết quả... hay cái giá của việc đó là, cô ta đã rơi vào cảnh bị phơi thây như thế?
Không... nếu xét đến sự khác biệt của "Tên Thiên Sứ" mà cô ta được trao cho ngay từ đầu...
Thì có phải chủ nhân của nơi này đã cố tình đưa thông tin khác cho ông Orlocke và cô Adashino...?
Nếu vậy, nơi này dùng vào mục đích gì?
Có phải cô ta bị giết ở một nơi khác, rồi sau đó mới bị xâu vào thanh kiếm?
Có đúng thật là cô ta đã bị giết chết bởi một lời nguyền hay không?
Một lúc lâu sau, khi đang đi trong đường hầm, Heine cảm thấy một loại ma lực không phải của mình.
Có vẻ như đây là trung tâm xưởng phép của ông ta.
Thật ra anh không nghi ngờ chuyện toàn bộ lâu đài này là một xưởng phép khổng lồ do pháp sư dựng lên, nhưng anh không tin nó là nơi mà ông ta sáng tạo ra ma thuật mới. Không, nơi đó phải được che giấu cẩn thận, và vẫn còn hoạt động ngay cả khi chủ nhân của nó đã chết. Hoặc có thể nó là một phần trong bí mật mà ông để lại trong di chúc của mình.
- "
Convert ."
Heine thì thầm, và Đá Sống ẩn trong cơ thể anh ta đáp lại.
Ngay lập tức, thân thể Heine được bao bọc trong một bộ áo giáp hiệp sĩ, và một cây thương xuất hiện trong tay anh. Bất chấp vẻ lỗi thời của bộ giáp này, không có bộ giáp nào khác thích hợp với anh hơn nó. Anh nghĩ có thể bởi vì anh là hậu duệ của một gia tộc lạc hậu. Chính pháp sư, hơn bất cứ ai, là một nhóm người đã tự vùi mình vào trong bóng tối của lịch sử.
Về mặt này, Seigen mạnh mẽ hơn anh nhiều.
Không phải với ma thuật của anh ta, mà là ngược lại.
Bởi vì ma thuật, về bản chất, là niềm vui.
Cảm giác phấn khích khi nắm giữ một sức mạnh vượt trội hơn thế giới bình thường. Cho dù đó là một nguyên tắc cổ hủ, thì vứt bỏ thứ niềm vui trân quý hơn bất cứ điều gì khác do cuộc sống mang lại là một chuyện khó khăn. So với niềm vui mà ma thuật đem đến, thì đau đớn và hy sinh trong quá trình học hỏi ma thuật cũng chẳng là gì cả.
Seigen đã tự nguyện vứt bỏ tất cả, anh ta là một người mạnh mẽ. Hoặc có lẽ nói đúng hơn là anh ta có một sự hồn nhiên mà thường chỉ thấy ở động vật. Kể cả Lord El-Melloi II cũng không thể thoát khỏi sự thèm khát tri thức của mình.
Có thể nói, đó là một sức mạnh mà Heine chưa bao giờ đạt được.
"..."
Những tiếng bước chân vang vọng.
Tiếng vang đều đặn đến nỗi khiến anh hơi nghi ngờ liệu những tiếng bước chân này có phải của một mình anh. Các số phận giao nhau. Các hiện tượng nghịch đảo. Hiện thực bị đánh lừa bởi phép thuật.
Là những pháp sư, họ sinh ra từ bóng tối.
Do đó, một chuyện không thể tránh khỏi là họ sẽ quay trở về với bóng tối.
Rốt cuộc, niềm khao khát đạt được Căn Nguyên của các pháp sư dường như cũng bắt nguồn từ ý nghĩ ấy, phải chăng?
"A."
Cuối cùng, bước chân của anh dừng lại.
Trong tầm nhìn của Heine được cường hóa bởi ma lực, một cái bóng thậm chí còn âm thầm hơn cả bóng tối trong đường hầm này bắt đầu xuất hiện.
Con quái thú đó hình thành từ bóng tối, hầu như hoàn toàn không thể phát hiện được trong đường hầm này, không tiết lộ bất cứ điều gì về hình dạng thật sự của nó. Khi Heine nhận ra nó, anh hơi mỉm cười.
"...Chúng ta lại gặp nhau rồi nhỉ."
Heine khom người xuống, mũi thương của anh chĩa phía dưới con quái thú.
Mặc dù nó là một con quái thú, Heine không biết được trí khôn của nó ở mức nào. Có thể trí tuệ của nó không hơn một con dã thú, nhưng nếu nó được một pháp sư điều khiển, thì có khả năng pháp sư này đã có sự chuẩn bị để đối phó với Heine.
Vì vậy, Heine không được hạ thấp phòng bị một khắc nào.
Không hề dựa dẫm vào sức mạnh của áo giáp, anh thận trọng lăm lăm cây thương để bảo tồn khoảng cách rộng giữa đôi bên. Dù quái thú chuyển động nhanh hơn lần trước, chừng nào vũ khí của bọn họ chỉ là thương và trảo, Heine có thể chiếm thế thượng phong và giành chiến thắng. Nếu quái thú giở mánh khóe nào đó của nó...
...Ừ thì, anh sẽ tùy cơ ứng biến.
——Cái bóng lao tới.
Khi Heine dùng thương tấn công, một tiếng chát to vang lên.
Không có máu, cũng không có gì hơn một vết trầy xước trên áo giáp của Heine. Anh quả thật đã cảm thấy cây thương của mình đâm vào một thứ gì đó rắn chắc.
Nhưng.
"…Mình bị lừa rồi sao?"
Heine tặc lưỡi trong khi kiểm tra ngọn thương của mình.
Nó đã biến mất. Bộ móng vuốt của con thú không nhắm vào Heine, chúng đã tấn công vào cây thương. Độ cứng của cây thương vượt trội hơn so với áo giáp. Không còn nghi ngờ gì nữa, năng lực của con thú mạnh hơn rất nhiều so với những gì mà nó thể hiện lần trước.
Cái bóng lui lại, như đang cười.
'Sao hả? Ta có thể cắt xuyên áo giáp của ngươi dễ như vậy đó!'
"..."
Không nói một lời, Heine vung thương. Phần thân kim loại nguyên chất ngắn lại một chút trong khi phần đầu biến hình thành lưỡi thương.
'Nhưng làm như vậy có ích gì? Cây thương được tạo ra từ giả kim thuật của ngươi đã thua những móng vuốt của ta. Ngươi nghĩ rằng kết quả sẽ khác khi thử làm lại ư?' Con quái thú hình như đang run lên vì phấn khích.
Nó nhảy lên.
Di chuyển hình chữ chi trong đường hầm nhỏ hẹp, trông nó như một quả bi-a to bằng một con người. Nó nhảy lên năm lần, tám lần, rồi hơn hai mươi lần. Dù Heine tăng cường thị lực của mình đến mức nào thì đôi mắt của người dĩ nhiên không thể nào bắt kịp kiểu chuyển động đó. Những chuyển động với vận tốc hơn ba trăm ki-lô-mét trên giờ thì vượt ngoài giới hạn vật lý của con người.
Thình lình tấn công Heine từ điểm mù của anh, những móng vuốt của con quái thú xé vụn áo giáp của Heine như thể nó là hư vật.
Thật vậy, như thể hư vật - Giữa lúc quái vật tấn công, bộ áo giáp bỗng nhiên vươn ra và chụp lên con thú.
"Đó cũng là điều mà ta đã nghĩ đến rồi." Heine nói nhẹ nhàng.
Bộ giáp của anh có nhiều công năng khác chứ không chỉ là "cứng chắc".
Trong trường hợp này, anh đã làm điều ngược lại - khiến cho nó mềm ra để bẫy đối thủ của mình. Khi mà quái thú cắt ngọt cây thương, Heine đã thay đổi chất lượng áo giáp của mình. Hết sức thận trọng, anh biến đổi nó thành những sợi xích, và dùng chúng để trói lấy con quái thú.
"Chính vào lần này, hãy để ta xem ngươi thực ra là thứ gì nào"
Từ từ quay lại , Heine giương thương lên.
Tuy không phát ra âm thanh, con thú vẫn hống lên.
Buổi sáng ngày thứ tư.
Chúng tôi vẫn còn đang sửa soạn đồ. Chúng tôi đã bỏ ra rất nhiều thời gian để nói chuyện với ông Orlocke vào tối hôm qua, nên vẫn như thường lệ, sư phụ tôi có hơi ngái ngủ khi tôi giúp thầy chỉnh lại trang phục cho ngay ngắn. Khi chúng tôi chuẩn bị rời phòng để đi ăn sáng, thì một trong những người hầu của Ashborn bước vào.
Một lần nữa, họ đem đến tin xấu.
Vẫn là căn phòng đó.
Ánh nắng chiếu trên bầu trời cao và trải xuống dưới trông tựa như một chiếc cầu thang dành cho các Thiên Sứ, một sự trớ trêu mà chúng tôi không tránh được.
Cũng ở nơi mà chúng tôi tìm thấy Hishiri bị treo trên thanh gươm của Thiên Sứ, dưới chân của Thiên Sứ đó hiện có một người khác.
Cảnh tượng này thật sự làm chúng tôi nhớ lại những câu truyện xưa về các hiệp sĩ thời Trung Cổ. Nằm dưới chân của Thiên Sứ, trong bộ áo giáp toàn thân, chính là Heine. Hai cánh tay anh ta buông lơi, còn đôi mắt anh thì nhắm lại.
Ngay cả khi chết, khuôn mặt của anh trông giống hệt như những gì mà người ta tưởng tượng trong câu truyện về một hiệp sĩ. Có lẽ chúng tôi nên cảm tạ, bởi vì không giống như với Hishiri, khuôn mặt của anh ta không bị thương tổn.
Cảm tạ ư?
Cảm tạ ai?
Chỉ mới nhìn thấy thi thể này, sư phụ tôi đã chắt lưỡi xác nhận.
"...Là Ariel à?" Thầy nói nhỏ, nhìn vào nơi chân trái bị mất của cái xác. Chẳng ai ở đây cần được chỉ ra rằng chân trái tương ứng với tên Thiên Sứ Ariel. Mặc dù sư phụ tôi là người đã bảo rằng những cái tên Thiên Sứ là một phương pháp dự báo về cái chết của chúng tôi, nhưng khi nhìn thấy điều này trở thành sự thật trước mắt, cảm giác ấy giống như phải nuốt một cục đá. Đó là cảm giác trống rỗng, vô vọng.
Trên ngực Heine là một vết máu khá lớn. Với lượng máu nhiêu đó, chắc hẳn vết thương này là nguyên nhân gây tử vong. Ngược lại, thậm chí phần chân trái bị cụt của anh trông cũng không chảy máu nhiều lắm, suy ra là nó đã bị lấy đi sau khi anh ta chết. Với biểu cảm như bị cảnh tượng đó làm cho tê liệt, tôi chỉ biết lạnh lùng liệt kê ra những điều trên từng thứ một.
Nhưng mà...
"...Tại sao!?"
Một tiếng kêu đầy đau khổ vang lên khắp căn phòng.
"Tại sao... lại là Onii-sama chứ!?"
Tôi không thể làm được gì ngoài đứng nhìn khi cô bé òa lên khóc.
Đứng bên cạnh em, Seigen cúi nhìn xuống, nghiến răng.
"Heine-nii-san..."
Cả hai đều trông như thể đã có ai đó cướp đi một phần trái tim của họ.
...Không, không chỉ bọn họ. Ngay cả sư phụ tôi cũng nhìn cảnh này với gương mặt cứng lại. Quả thật, hiện trường này dường như không gây sốc nhiều như khi phát hiện ra thi thể của Hishiri, nhưng cho dù vậy, bộ mặt tái nhợt của thầy mang lại cảm tưởng rằng thầy chỉ muốn mau mau chết quách cho rồi.
Sau lưng chúng tôi, một tiếng nói vang lên.
"Adashino Hishiri là một cái van an toàn theo ý nghĩa quyền uy , còn Heine Istari là một cái van an toàn theo ý nghĩa tinh thần. Ha ha ha, ta nghĩ nó cứ như là cái cách rút từng mảnh gỗ trong trò Jenga ấy nhỉ."
"Ông Orlocke."
Sư phụ tôi quay lại, gọi tên người mới đến.
"Nhưng ta đang hợp tác với cậu rồi. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói rằng sự an toàn của cậu đã được đảm bảo hơn so với trước, đúng không nào?"
Ông già cười nham hiểm, thoáng lộ ra một con quỷ được che giấu bên trong.
Sư phụ tôi không trả lời. Thay vào đó, bằng một câu "Xin thất lễ", thầy quay sang và tiến về phía trung tâm căn phòng.
Đến trước Rosalind đã rối bời, thầy biểu lộ vẻ nhăn nhó chua cay. Gương mặt của thầy bây giờ mang một nỗi đau lớn hơn những lần mà tôi từng thấy ở thầy trước đây, bất kể những pháp sư mà thầy từng đương đầu khủng khiếp ra sao. Nhưng dù vậy, với ý chí không giao động, thầy nói.
"Cô Rosalind. Có thể cho tôi xem xét anh trai cô được chứ?"
"Là ông!" Giọng nghẹn ngào, cô bé quay sang đối mặt với thầy. Đôi mắt thách thức của em tỏ rõ rằng em sẽ không để bất cứ ai đến gần anh trai mình.
"Là ông! Chính ông! Ông đã giết Onii-sama! Hoặc là ông đang vui mừng vì Onii-sama đã chết và mình lại bớt đi được một đối thủ cạnh tranh! Ông sẽ tiếp tục giết chóc cho đến khi trở thành người cuối cùng còn lại trong cái lâu đài này!"
Lời buộc tội của Rosalind văng vẳng bên họ. Cái quyết tâm đã thúc đẩy sư phụ tôi đi đến chỗ cô bé giờ cũng đang hiển hiện trong ánh mắt và giọng nói của em. Biểu cảm của em tỏ rõ rằng nếu có ai dám đặt một ngón tay vào người anh trai của em, em sẽ giật phăng ngón tay đó ra ngay. Trước sự phản kháng kịch liệt của cô bé, dường như ngay cả những Thiên Sứ trong khắp lâu đài cũng phải e dè không dám đến gần.
"...Không, chuyện này..." Sư phụ tôi ngần ngại, xiết chặt hai nắm tay của mình ở hai bên.
Dù có nói gì đi chăng nữa, Rosalind cũng sẽ không để vào tai. Lý trí của cô bé đã mất. Những mối liên kết giữa em với thế giới xung quanh đã đứt đoạn. Niềm hạnh phúc vốn có của em đã mất đi, và thay vào đó là bi kịch.
"Cậu ta chết vào khoảng sau nửa đêm hôm qua." Orlocke nói. "Chúng ta sẽ làm một cuộc xác nhận chứng cứ ngoại phạm nữa cho đàng hoàng chứ?"
"Với tôi thế là được rồi," Luvia trả lời gay gắt, quay ra khỏi phòng. "Tôi đã nắm bắt được phần lớn cái trò hề này. Và sẽ tự mình chuẩn bị để tiếp đón nó." Với một cái nhún gối chào lấy lệ, cô rời khỏi phòng.
Không nhìn theo Luvia, sư phụ tôi lại một lần nữa lấy can đảm nói với Rosalind.
"Cô Rosalind ..."
"Tôi sẽ không giao Onii-sama cho bất cứ ai hết!" Cô bé tám tuổi bướng bỉnh tuyên bố.
Ngay cả một quân đội mười nghìn người cũng không thể thắng nổi cảm xúc của một cô bé. Đó là ấn tượng mà em tạo ra.
Nhìn khuôn mặt cương quyết của em, tôi lặng lẽ tiến đến sau khi em nói xong.
"...Rosalind-san, Seigen-san," Tôi điềm đạm nói. Đứng kề bên tôi, sư phụ tôi đang nhìn tôi cau mày. Tôi nói trực tiếp với hai người bọn họ.
"...Hai người có thể để tôi làm một lễ tang cho Heine Istari được không??"
"...Lễ tang?"
Đôi mắt của Rosalind nhấp nháy, bắt đầu bộc lộ điều gì đó mà không phải thù địch. Sự giao động này khiến tôi nhận ra rằng, dù mỏng manh như thủy tinh, lá chắn mà cô bé tự bao bọc mình là thứ duy nhất còn lại để bảo vệ trái tim của em.
"... Tôi..."
Cho dù tôi không có ý định như vậy.
Cho dù tôi không có tư cách để làm thế.
Thế thì tại sao tôi lại nói điều đó với em ấy?
"Bởi vì... tôi có nhớ lời bài cầu nguyện."
Chỉ có ba người tham dự.
Ngoài tôi ra, Rosalind, Seigen, và sư phụ tôi là những người duy nhất có mặt.
Tại một bãi đất trống trong rừng, nằm cách xa những khu vườn của lâu đài, chúng tôi đã chôn hai người trong bọn. Không hề có tí cảm giác khó chịu nào, những người hầu của nhà Ashborn đã làm ngôi mộ cho hai người đó và đặt họ vào trong, họ được đối xử không khác mấy so với những đồ đạc bị hỏng.
"Thật sự thì đáng lẽ chúng ta phải làm điều này ngay cho cô Adashino mới đúng nhỉ?" Sư phụ tôi nói, mắt nhìn sang mô đất trước mặt thầy.
Bây giờ, Heine được chôn bên cạnh Hishiri. Xét về sự thỏa đáng đối với hai người này, không lạ lắm nếu có ai trong số họ phàn nàn về cách thức nghi lễ diễn ra, nhưng trong trường hợp này, chúng tôi thật sự không đủ điều kiện để có thêm sự lựa chọn khác.
Đến lúc chuẩn bị xong thì đã là đầu giờ chiều. Mặt trời mùa thu dường như đang chiếu sáng cho chúng tôi với một vẻ cô quạnh.
Nếu không phải do Lâu Đài Biệt Cư nằm khá gần đây, mùi đất và lá cây khô sẽ tạo nên một bầu không khí khá thi vị.
"Gray."
"…Vâng."
Đáp lại tiếng gọi của sư phụ, tôi gật đầu.
Trước tiên, tôi lấy ra một cái bình hương nhỏ và đặt nó phía trước, bỏ vào một số cây nhang đang cháy. May mắn là trong lâu đài có nhang hương. Đúng ra thì tôi còn phải rải một chút nước thánh nữa, nhưng mà hiện tại chúng tôi lại không có nó, nước thánh không có vẻ gì là phù hợp với một pháp sư mặc dù anh ta đã từng có mối liên hệ với Giáo Hội.
Vì vậy, chúng tôi chẳng cần phải làm một lễ mai táng màu mè, hoặc cần những lời tiếc thương của những người còn sống. Nên việc duy nhất còn lại là dành một lời cầu siêu cho người đã khuất.
Tôi hít một hơi thật sâu.
"Lạy Chúa, là Chúa của tất cả những ai tìm đến sự che chở,"[31]
Những câu từ này được cất lên một cách trôi chảy. Tôi nghĩ thầm khi đọc chúng, rằng đây hẳn là giống như kiểu cơ thể ta ghi nhớ về điều gì đó. Cho dù nhẩm đi nhẩm lại, tôi cũng không thể nhớ lời nguyện này một cách chính xác, nhưng khi tôi cất tiếng, chúng lại tuôn ra dễ như không.
"Chúng con khẩn cầu lòng nhân từ vô bờ bến của người. Xin hãy ban cho linh hồn của kẻ bề tôi của người, Heine Istari, được chào đón trong vòng tay thân ái..."
Những từ ngữ mà tôi đã quên lãng từ lâu, nay trào ra không ngừng.
Nhưng quả thật có cảm giác như một lời dối gạt. Tôi không phải là linh mục, cũng không có đức tin vào Thiên Chúa hoặc tôn giáo. Trong số tất cả chúng tôi, người tin vào Chúa nhiều nhất hẳn phải là Heine, mà anh ta thì đã quay lưng lại với Giáo Hội. Có thể anh thậm chí còn phản đối một lời cầu nguyện như thế này.
Nhưng.
Là ai đã nói, lời cầu nguyện cho người đã qua đời là vì ích lợi cho người còn sống?
Là ai đã nói, nếu bạn có thể đem đến dù chỉ một sự an ủi nhỏ bé dành cho người bị suy sụp vì nỗi mất mát, thì bạn có thể chờ đặt câu hỏi cho đức tin của họ lúc về sau?
"... thanh tẩy tội lỗi, giải phóng khỏi xiềng xích của cái chết ..."
Đột nhiên, lời nguyện của tôi dừng lại.
Khi người tôi vẫn cứng đờ, tôi quay lại để đối diện với ba người tham dự phía sau tôi.
"Gray-san?" Rosalind lên tiếng.
Nhưng tôi không thể đọc tiếp.
Điều gì xảy ra tiếp theo? Phần đầu tiên đã diễn ra rất trôi chảy, rất tự nhiên, nhưng bây giờ thì dường như nó đã biến mất hoàn toàn trong đầu tôi. Như thể từ đầu vốn chẳng là gì ngoài một ảo tưởng, dù tôi nỗ lực bao nhiêu để nhớ lại, không một từ nào đến được với tôi. Tôi đã nghe lời cầu nguyện này vô số lần khi tôi còn nhỏ, nhưng có vẻ như một kẻ không tin vào Chúa như tôi thì không thể thật sự học được nó.
"Gray-san?" Rosalind hỏi một lần nữa.
"…Ừm, tôi..."
Tôi cần phải xin lỗi.
Tôi đã phá hỏng khoảnh khắc cuối cùng dành cho người anh yêu dấu của cô bé. Tôi biết đó là điều không thể nào tha thứ được. Nhưng tôi biết phải làm gì để có thể mở lời xin lỗi? Tôi có thể làm gì cho em ấy mà không gây ra thêm sự sỉ nhục cho anh ta nữa?
Tôi cảm thấy một bàn tay đặt trên vai tôi. Khi quay lại, có một giọng nói nhỏ, với hơi thở mang theo mùi xì-gà, chạm đến lỗ tai tôi.
"... và đi vào cuộc sống vĩnh hằng."
Nghe được đoạn tiếp theo của lời cầu nguyện, tôi nuốt nước bọt. Sau một chút chần chừ, tôi lại tiếp tục, đọc theo sau lời của sư phụ tôi.
"... và đi vào cuộc sống vĩnh hằng. Chúng con cầu xin điều này nhờ Đức Chúa của chúng con."
Kết thúc lời cầu nguyện, tôi làm dấu thập giá.
Amen.
Đúng thật là như thế.
Cầu nguyện cho người đã khuất. Dù cho chúng tôi không tin vào cuộc sống vĩnh hằng sau cái chết, xin hãy ở bên chúng tôi và những linh hồn dễ bị lầm lạc của chúng tôi.
Trong một hồi lâu, không ai nói gì cả, và một sự tĩnh lặng buông xuống nơi này. Trong lúc im lặng đó, tôi lấy cái nắp đậy lên chiếc bình hương, và đấu tranh với niềm thôi thúc được ngồi xuống do bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Vào lúc tôi lại còn đậy cả nắp lên cảm xúc của chính mình nữa,
"...Cảm ơn chị rất nhiều."
Rosalind cúi đầu về phía tôi. Tựa như em vừa thoát khỏi trạng thái bị ma ám. Em vẫn trông như đang chịu nỗi mất mát, nhưng trái tim em không còn bị xiềng xích bởi nỗi mất mát đó.
"Ưm, em xin lỗi. Vì ban nãy đã nói những điều thật khủng khiếp."
"...À, ừm..."
Trong lúc đắn đo tìm lời để nói, tôi nhận thấy mình lặng thinh. May thay, không bận tâm đến tôi, cô bé nói tiếp.
"Gray-san là pháp sư, thế mà chị lại biết cầu nguyện ạ?"
"…Bởi vì tôi, không hẳn là một pháp sư ..."
"Em ấy xuất thân từ một nghĩa trang đấy." Như thể không kiềm chế được nữa, sư phụ tôi nói.
Kể cả thầy trông cũng cực kỳ mệt mỏi. Một vụ giết người hàng loạt. Những cái nhìn liên tục của những pháp sư khác. Điều đó căng thẳng đến mức đủ khiến người ta nổi cơn đau dạ dày ngay cả khi ta không phải kiểu người dễ bị đau bụng như sư phụ tôi.
"Một nghĩa trang ư?"
"...Chuyện này có sự tình của nó." Tôi nói, rút lui vào sâu trong mũ trùm của mình.
Tôi vẫn chưa thật sự kể gì về quê hương của mình. Kể cả khi tôi được yêu cầu giải thích cho người khác nghe, nhưng đây không hẳn là chuyện mà tôi hiểu hoặc chấp nhận đối với bản thân. Ừ thì, thậm chí đây có phải là chuyện mà tôi có khả năng chấp nhận hay không thì vẫn còn là một câu hỏi. Rốt lại, ý niệm cuộc sống vĩnh hằng sau cái chết là dành cho những người không thể chấp nhận cuộc sống của họ như nó vốn là như thế, phải không?
Liếc nhìn tôi cái nữa, sư phụ tôi lại nói.
"Anh Seigen, anh có phiền đưa cô Rosalind về không?"
"À, được. Cứ để đó cho tôi."
Theo yêu cầu của sư phụ tôi, Seigen đưa Rosalind trở lại lâu đài. Sau khi nhìn họ bỏ đi, sư phụ tôi lại nói.
"Mà, lễ tang đó hẳn đã thành công tốt đẹp đấy."
"...Ưm, cám ơn thầy nhiều."
Nghe xong lời cảm ơn của tôi, sư phụ khịt mũi nhè nhẹ.
"Hừm. Nhưng vì anh ta là một pháp sư nên sẽ có người cho rằng cầu nguyện là không quan trọng. Trong khi tiếng Amen vừa nãy đích thị là có quan hệ trực tiếp với Kabbalah đấy."
Tôi mở to mắt ngạc nhiên.
"...Vậy sao ạ?"
"Đó là kỹ thuật giản lược Notarikon. Nguyên gốc nó là Adonai Melef Neman. Nó có ý nghĩa là 'Hỡi đức chúa và vị vua thành tín'. Ghép những chữ cái đầu của nó lại, ta có từ AMEN. Mà, hiện nay có nhiều người phiên dịch nó thành 'Đúng thật là như thế'."
Có lẽ đó là kiến thức phổ thông đối với pháp sư, nhưng đối với tôi thì điều đó thật đáng ngạc nhiên.
"Hừm. Bé Rosalind có vẻ chưa đi sâu vào nền tảng của chuyện này. ...Nhưng khi quay về, ta sẽ lấy nó làm chủ đề bài tập về nhà cho em. Hãy chuẩn bị đi."
Tôi buông một tiếng rên rỉ nhỏ trong lúc gục đầu xuống, chờ đợi bài giảng kết thúc.
Nhưng dù sao, việc chúng tôi có thể có được một cuộc trao đổi như thế này cũng làm cho tôi thấy vui một chút. Nó nhắc tôi nhớ lại khoảng thời gian chúng tôi còn ở Luân Đôn, trước khi đến Lâu Đài Biệt Cư.
Sư phụ tôi dời ánh mắt sang hướng ngược lại với nơi Rosalind và Seigen vừa đi khuất.
"Ông có chuyện gì với tôi à?"
"...Ô hô, bị lộ mất rồi!" Với vẻ đùa cợt, Flue xuất hiện từ nơi ẩn nấp của mình phía sau bức tường lâu đài.
Sau khi liếc nhìn nhà chiêm tinh một cái, sư phụ tôi ngay lập tức mang một vẻ mặt bực tức.
"Ông tới cầu nguyện à?"
"Ha, làm gì có. Tôi chỉ băn khoăn không biết một pháp sư sẽ gây cười bằng một bài cầu nguyện kiểu gì đây? Tôi bắt đầu đứng một bên quan sát vừa đúng lúc cô bé đặt cái bình hương đấy."
Như thế đơn giản chỉ là anh ta đã ở đây trong suốt buổi lễ, nhưng sư phụ tôi không chỉ ra điều đó, mà lấy hộp thuốc xì-gà trong áo khoác của mình. Dùng dao cắt đầu của một điếu xì-gà mới, thầy nói với Flue như thể họ đã bắt đầu một câu chuyện mới.
"Ông cho tôi lửa được chứ?"
"Ờ." Flue giơ tay lên, và tôi nghe thấy âm thanh sắc của một cái nắp kim loại được mở ra.
Sư phụ tôi cười nhạt.
"Chẳng phải các pháp sư vẫn nói bật lửa Zippo là thứ suy đồi sao?"
"Giờ mà anh còn nói thế à? Chứ chẳng lẽ tôi lại làm ra diêm từ nước tiểu của mình hay sao?"
"Ha."
Miệng của sư phụ tôi cong lên trước câu nói đùa thô tục. Theo những gì tôi học được sau này, phốt-pho được sử dụng để làm ra loại diêm cũ, được khám phá ra trong một cuộc thí nghiệm hóa học xưa có liên quan đến việc làm bay hơi nước tiểu. Dù sao thì, trò đùa này dễ dàng được ghi nhớ lại đầu tôi.
Sau khi rít một hơi xì-gà dài, sư phụ tôi lại nói.
"Có phải Luviagelita Edelfelt đã bảo ông giết tôi không?"
"Ô, đúng là cô ta có nói. Mà, tâm tính cô ta có gì đó hơi khác một chút." Flue có vẻ đang rất thoải mái, nhún vai một cách hài hước.
Nghe vậy, tôi tự nhiên thấy nín thở, nhưng cả hai người vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện của họ như thể chẳng có gì lớn.
"Tâm tính?"
"Ờ. Cô tiểu thư đó muốn chứng minh sự bất tài của anh và chôn vùi anh trong công việc đấy. Chắc hẳn anh thấy nó là một cách tấn công trực diện hơi quá nhỉ?"
Nghe đến đây, sư phụ tôi tròn mắt. Sau khi chớp mắt một cái,
"...Quả thực là... mới lạ đấy." Thầy nói cùng với một tiếng rền rĩ.
"Nếu anh làm cái vẻ mặt đó thì cô ta sẽ vui vẻ vỗ tay cho xem. Chắc hẳn cô ta không thể nén giận được trước việc anh hay phê bình người khác với thái độ cao ngạo đấy thôi."
"Tôi không nhớ là mình có như thế đâu nhé." Sư phụ tôi đáp khô khốc.
"Cho dù anh không nhớ thì đối phương cũng nhận thức như vậy thôi mà. Anh nên nhớ đi thì hơn."
Đáp lại lời của Flue, sư phụ tôi làm ra một vẻ mặt vô cùng khó khăn.
"Tôi thì nghĩ ngược lại đấy."
"Gì cơ?"
"...Không có gì." Sư phụ tôi lắc đầu, nhìn lại mô đất nơi Heine và Hishiri được chôn cất.
"Thân thể Heine-san đã bị tổn thương cùng với bộ giáp." Sư phụ tôi lẩm bẩm như vừa chợt nhớ đến. Trước khi việc chôn cất diễn ra, thầy đã nhìn trộm thi thể được một chút.
Nghe được thông tin đó, Flue vuốt lên bộ mặt râu ria của mình.
"Hừm... là 'Đá Sống' của nhà Istari ấy hả? Nó chẳng được như lời đồn nhỉ."
"Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy hàng thật, nhưng nếu thuật giả sử dụng nó đã chết rồi mà nó vẫn duy trì độ cứng tới mức đó, thì chắc hẳn khi anh ta còn sống, nó chẳng thể bị phá vỡ ngay cả bởi những ma thuật hùng mạnh. Thế nhưng, có dấu hiệu cho thấy thuật thức cấu thành bộ giáp đã trở nên bất ổn định. Ngay sau đấy, một thứ gì đó có vẻ như là móng vuốt của con thú đã xuyên vào ngực anh ta. Thương tích do hung khí này gây ra giống như thương tích của cô Adashino. Cũng tương tự như thế, có những dấu vết cho thấy Khắc Ấn Ma Thuật của anh ta đã bị gỡ bỏ bằng vũ lực."
"Hô?" Flue nghiêng đầu về phía trước, tỏ vẻ như vô cùng quan tâm.
"Hơn nữa, tương tự như cô Adashino, có lẽ xác chết của Heine-san đã bị di chuyển khỏi hiện trường."
"Phải rồi. Ở đại sảnh đó không có vết tích đánh nhau gì cả."
"Nếu thế thì chúng ta vẫn chưa biết hiện trường vụ án của cả cô Adashino lẫn Heine-san. Nói cách khác, hiện trường đó... khả năng cao là nó có quan hệ với bí pháp của Ashborn."
"Hà." Flue gật đầu mơ hồ, khiến ta khó có thể biết được thật ra anh ta có tán đồng hay không. "Nhưng tại sao lại phải mất công chuyển xác chết ra đại sảnh đó cơ chứ? Nếu đúng như anh nói, thì cứ để nó biệt tăm biệt tích luôn chẳng phải là ổn rồi sao?"
"...Cái đó thì..."
Trước khi nói tiếp, sư phụ tôi quay lại.
Bên cạnh những mô đất mà chúng tôi vừa mới làm lễ lúc nãy, Orlocke hiện đang ngồi thoải mái trên chiếc xe lăn của mình.
"Ôi cha, ông già bước ra sân khấu đấy à? Có khi nào ông đến để trông giữ anh ta không đấy?"
"Không. Xem chừng con bé đó đang bắt đầu một thứ thú vị đấy. Chả mấy khi có dịp, nên ta đến để mời các người đến xem cùng."
Nghe xong, sư phụ tôi bắn sang Flue một ánh mắt nghi ngờ.
"Ông đang giám sát chúng tôi sao?"
"Ai chà?" Flue đáp với một tiếng huýt sáo ngây thơ.
Lờ Flue đi, sư phụ tôi trao cho tôi một cái gật đầu vội vã trước khi quay sang Orlocke.
"Chúng ta đi ngay thôi."
Sư phụ tôi và tôi lập tức chạy đến phòng của Luvia. Thoạt nhìn, căn phòng của cô ta dường như đã được dọn sạch bóng dáng của các Thiên Sứ. Việc đó đã được thực hiện tốt đến mức cảm giác như chúng tôi thật sự đã rời khỏi Lâu Đài Biệt Cư.
Ngay khi bước vào, tôi chớp mắt kinh ngạc.
"Rosalind-san, Seigen-san."
Bởi vì hai người chỉ vừa mới rời nhóm chúng tôi mà đã xuất hiện ở đây rồi.
"Vừa rồi, người hầu đã gọi bọn em đến." Rosalind nói, liếc về phía Luvia đang đứng ở trung tâm căn phòng.
Mái tóc của Luvia với những lọng tóc trông như vàng được kéo thành sợi. Vẻ sâu thẳm trong đôi mắt giống như hai viên đá quý của cô ta đang nhìn chúng tôi phục hồi lại vẻ bí ẩn trong nhân cách của cô. Đứng bên cạnh cô là quản gia tóc bờm của cô, Clown.
"Lord El-Melloi II. Tôi đã nghĩ rồi ông sẽ đến sớm thôi mà."
"Cô đang định làm gì đây?"
"Tôi đang nghĩ là mình sẽ đặt dấu chấm hết cho cái trò hề này. Tôi cũng đã gọi Orlocke-sama tới. Nếu có thể, hẳn ông cũng muốn giải quyết một lần cho xong thì tốt hơn, đúng không nào?" Nụ cười của cô trở lại nhờ một sự tự tin vô cùng.
Theo như sư phụ tôi, gia tộc Edelfelt được nhận biệt hiệu 'những kẻ côn đồ' không chỉ vì việc thu thập các xác chết. Họ còn cố tình lởn vởn quanh các xung đột mà họ không quyền lợi gì, nhảy bổ vào rứt lấy những mẩu mà họ chọn cho chính mình hễ khi cơ hội đến.
Tóm lại, họ vốn thông thạo việc đánh hơi thấy những trái quả tốt nhất. Không phải nhờ lý luận, mà là nhờ giác quan nhạy bén hơn.
"Giải quyết một lần cho xong? Chuyện này vẫn còn chưa..."
"Để tôi nói cho ông biết." Luvia ngắt lời, thẳng thừng gạt đi lời của sư phụ tôi. "Chính bởi vì tôi khoanh tay đứng nhìn, mà nó đã dẫn đến những cái chết vô nghĩa."
"...Ư."
Sư phụ tôi đứng hình với một lớp sương phủ trên mặt. Cả thầy và tôi đều đau đớn nhận ra rằng những người phải chịu nhiều tổn thương và căm phẫn nhất vì cái chết của Hishiri và Heine cũng đang ở trong căn phòng với chúng tôi ngay lúc này.
"Cả hai người bọn họ đều là những nhân tài rất cần thiết đối với thế giới của chúng ta. Dẫu con đường ma thuật được lựa chọn có khác nhau, thì mỗi một giọt máu của pháp sư cũng đều tương đương với một viên bảo thạch. Huống hồ, mỗi pháp sư hùng mạnh đều là một báu vật mà dẫu có dùng bao nhiêu của cải cũng chẳng thể nào đổi lấy được. Dù cho sự đình trệ và yên bình là nghiệp chướng trong thế giới của chúng ta, thì sự tồn tại của họ đáng lẽ vẫn sẽ trở thành những nền tảng không thể thay thế được đối với những người đi sau... Tôi có nói gì sai không nào?"
Những từ ngữ và giọng điệu mạnh bạo đến từ dáng vẻ thanh tú ấy như giáng một cái tát vào mặt của chúng tôi.
Cô gái này, không nghi ngờ gì nữa, là một quý tộc. Lặng lẽ tiếp nhận tất cả mọi hài kịch lẫn bi kịch xảy ra trên thế giới, nhưng cô không hề thỏa mãn, mà lại là một đấu sĩ không ngừng nghỉ giương cao ngọn cờ kháng cự đối với bất kỳ sự kiện nào trong số đó.
Tôi có nghe sư phụ nói rằng, ngày xưa pháp sư từng là những vị vua.
Vì đất đai là thứ trọng yếu đối với ma thuật, nên các pháp sư vẫn thường hay giành lấy đất đai cho mình như những vị vua và quý tộc vậy. Vào thời hiện đại, các khu linh địa chủ yếu đều do Hiệp Hội Pháp Sư và các tổ chức kiểm soát, những đặc tính quý tộc của giới pháp sư đáng lẽ chỉ còn lại cái tàn tích cố bám víu đến cùng vào truyền thống, thế nhưng xem ra cô gái này vẫn còn thể hiện những đức tính trong quá khứ đó.
Chúng mờ nhạt, nhưng khi chứng kiến, chúng khiến lồng ngực tôi quặn lên một cơn đau nhỏ.
Cô ta cũng bị mắc kẹt hoàn toàn trong quá khứ, vậy thì làm sao mà cô ta có thể tiến bước về phía trước một cách cứng cỏi như vậy?
"...Khà khà."
Tiếng cười khô khốc vang lên từ phía sau. Xem ra Orlocke cuối cùng cũng đến.
Có vẻ như cơn giận dữ của cô ta - và dĩ nhiên là cả nghi lễ mà cô đã chuẩn bị - là điều vô cùng thú vị đối với ông.
"Đã vậy thì cứ để cô ta làm đi, Lord. Bất kể thành công hay thất bại thì hẳn nó cũng sẽ trở thành một manh mối đấy."
Sư phụ tôi không im lặng thêm nữa. Chỉnh lại điếu xì-gà của mình bằng một ngón tay, thầy ngẩng đầu lên và nói.
"Nhưng làm thế nào chứ?"
"Tôi đã cùng với ông Flue kia tìm ra một căn phòng bí mật."
"Một căn phòng bí mật?" Lông mày của sư phụ tôi nhíu lại trước câu này.
"Phải. Tại đó, tôi đã tìm ra thuật thức cơ sở cấu thành nên Lâu Đài Biệt Cư này. Dù tốn nhiều thời gian công sức, nhưng tôi xác nhận nội dung của nó là chính xác và đã hoàn thành công tác tương ứng."
"'Công tác' ư?"
"Phải. Đây này."
Với một nụ cười dịu dàng, cô vươn tay, đưa ra một viên ngọc duy nhất.
"Tất cả con đường ma thuật của từng căn phòng, từng lối đi trong Lâu Đài Biệt Cư đều đã lấp đầy trong viên Bảo Thạch này của tôi. Phải mất gần nửa ngày trời mới làm xong đấy."
Đôi mắt của sư phụ tôi trợn lên khi hiểu ra điều đó có nghĩa là gì.
"Vậy thì, không lẽ cô..."
"Phải."
Khuôn mặt của Luvia nở ra một nụ cười ngọt ngào.
"Tôi định sẽ chiếm lấy toàn bộ chức năng Xưởng phép của Lâu Đài Biệt Cư Adra."
Chỉ nghe cô ấy nói ra điều đó, cũng khiến tôi chết lặng.
Điều đó cứ như thể ký sinh trùng vậy.
Hay là một hành vi tựa như virus máy tính mà tôi lần đầu được nghe sau khi tới London nhỉ?
Ngay cả người không biết rõ về pháp sư như tôi cũng có thể hiểu theo cảm giác cơ thể rằng câu nói đó kinh khủng đến mức nào. Xưởng phép là kết quả xây dựng mà pháp sư vun đắp trong nhiều năm, nhiều thập kỷ, có khi là nhiều thế hệ. Nếu như Khắc Ấn Ma Thuật là một cơ quan nội tạng mới được tạo ra trong cơ thể, thì Xưởng Phép không gì khác là một Dị Giới được tạo ra ngoài cơ thể.
Đó là một công việc khó khăn đến thế nào chứ? Trong khi sư phụ phân tích từng thứ một và cố gắng truy đuổi những điều bí ẩn của Lâu Đài Biệt Cư, thì ngược lại, Luvia nói rằng cô ta sẽ thách thức Lâu Đài Biệt Cư chỉ trong vòng có nửa ngày, dẫu cho ma thuật của nó mạnh đến mức nào đi nữa.
Cứ như thể Don Quixote cố gắng đánh nhau với cối xay gió vậy.
Không, trong trường hợp này, kẻ ngu ngốc đang cố gắng chiến đấu bằng thanh kiếm với một gã khổng lồ đúng như vọng tưởng của người hiệp sĩ già đấy nhỉ?
"Nếu điều đó xảy ra, dù hung thủ và lời nguyền đang trốn tránh ở đâu thì viên Bảo Thạch của tôi cũng sẽ vạch trần nó. Như vậy chẳng phải là đơn giản hay sao?"
"Chắc chắn cô phải biết Lâu Đài Biệt Cư này là một xưởng phép cao cấp đến thế nào. Cho dù cô có là người nhà Edelfelt đi nữa-"
"Không."
Trong một khoảnh khắc cực ngắn, một cái nhìn hơi dễ sợ thoáng qua gương mặt của cô. Sau khoảnh khắc đó, toàn bộ những gì còn lại là ánh mắt rực lửa của một người đang đối diện với đối thủ thách thức lớn nhất của mình.
"Hãy cứ chứng kiến tuyệt kỹ của nhà Edelfelt đi."
"Luviageli-"
Trước khi thầy có thể ngăn cản, cô ta giơ tay phải của mình sang bên.
- "
Call ."
Đôi môi xinh đẹp của cô mấp máy.
Viên ngọc bích trên các đầu ngón tay của cô, được cầm trong tư thế chào của hiệp sĩ, bắt đầu phát sáng, khiến cho những viên ngọc khác cũng phát sáng theo nó. Nó vừa làm liên tưởng đến ngòi nổ đang cháy sáng, vừa gợi cho tôi nhớ đến phần bên trong của một trong những phòng sưu tập bí mật của Viện Bảo Tàng Hoàng Gia Anh khi ánh sáng rực rỡ nhiều màu ấy tràn ngập không gian xung quanh cô.
Đó là một vòng tròn ma thuật được tạo thành từ những viên đá quý.
Như thể bùa phép vừa được kích hoạt đang phải làm gấp hai lần nhiệm vụ của một kết giới, cánh tay đang vươn ra của sư phụ tôi bị thổi ngược ra sau cùng lúc với một âm thanh nổ ra như sấm động.
Mỉm cười hài lòng, Luvia đọc thầm một lần nữa.
- "
Call ."
Bước thứ nhất là xung quanh bản thân Luvia.
Vòng tròn ma thuật bắt đầu từ từ xoay.
Ma lực tụ thành một hình xoắn ốc.
Qua lời giải thích của sư phụ tôi sau chuyện này cộng với trực giác của bản thân tôi, có vẻ như những gì Luvia đang cố gắng làm giống như một câu đố. Ví dụ, cho phương trình '3 + 4 = 5' được trình bày bằng các que diêm, và yêu cầu phải sửa lại phương trình cho đúng bằng cách di chuyển chỉ một que diêm duy nhất.[32]
Nó đang sử dụng công thức nền tảng ban đầu của Lâu Đài Biệt Cư, sử dụng những viên đá quý và năng lượng ma thuật của chính cô, tạo ra sự thay đổi khả dĩ nhất dẫn đến làm thay đổi toàn bộ công thức.
Tất nhiên, phạm vi và độ phức tạp của việc này thậm chí chẳng thể đem ra so sánh với câu đố que diêm kia.
Phạm vi là toàn bộ Lâu Đài Biệt Cư, và ma pháp trận phải thật chính xác đến mức ngay cả một con kiến cũng không thể lách qua mà không bị phát hiện.
Bất kể cô dùng bao nhiêu ngọc để tăng cường, điều này giống như cố thử sử dụng một vòi cứu hỏa để tạo ra một tác phẩm điêu khắc vài chục feet trước mặt.
Nhưng,
"Call. Connect with Green6 for Red8. Excitation Red10 and circulation to Blue 4. Blue6, thou connect with Blue7, 9, 11, and Red5, 6, 25 for Green and Red11. Thou shall be fish for coming with me.."
[Thức tỉnh. Kết nối Lục 6[33] đến Đỏ 8. Kích thích Đỏ 10, tuần hoàn đến Lam 4. Lam 6, cùng với Lam 7, 9, 11, Đỏ 5, 6, 25 kết nối đến Lục và Đỏ 11. Các ngươi sẽ trở thành con cá dẫn đường đến nguồn cội của ta.]
Câu thần chú tiếp tục.
Bước thứ hai là toàn bộ căn phòng.
Vòng xoáy ma lực vươn lên cao như một con rắn.
Những viên ngọc quý được khảm trong khắp lâu đài bắt đầu phản ứng, và ma lực tràn ngập khu vực này bắt đầu xoay theo một vũ điệu. Theo sau chuyển động của ma lực trên không trung, toàn bộ lâu đài bắt đầu rung chuyển, mạnh dần lên một cách rõ ràng.
Sư phụ tôi nhìn lên trần nhà.
"...Tòa lâu đài?"
"Ê ê. Này, có lẽ nào cô định tiến hành hoàn thiện nó thật đấy hả?" Ngay cả Flue, người được xem là trợ thủ của cô, cũng huýt sáo hoài nghi.
Kể cả những người ở đây, những người đã chứng kiến rất nhiều phép Thần Bí, thì đây vẫn là một cảnh tượng khó chấp nhận. Ma thuật của Luviagelita Edelfelt đang vươn tới cảnh giới không tưởng, chỉ có thể được diễn tả bằng từ 'thiên tài'.
Cô sẽ làm được chăng?
Trong khi đó, Orlocke nheo mắt lại mà không nói một lời nào.
- "
Call Grace! !"
Bước thứ ba là lập tức lan ra bao phủ toàn bộ lâu đài.
Mỗi cụm ánh sáng nhân rộng, kết nối lại với nhau, và những ánh sáng này biến thành những vòng tròn ma thuật. Mỗi vòng tròn lại tiếp tục mở rộng hơn nữa, kết nối với những vòng tròn khác, hình thái lại tiếp tục to ra hơn nữa, phức tạp hơn nữa. Cố gắng không làm vỡ ma pháp trận hiện có, cô viết lại chúng với những ý nghĩa mới.
Cứ mỗi khi hoàn thành thì lại có một viên đá quý quanh Luvia phát ra ánh sáng cầu vồng. Sau đó, hơn tám mươi phần trăm số lượng ngọc được đổi màu, và rồi khi toàn bộ chúng đều đã đổi màu, dường như có dấu hiệu rằng quyền kiểm soát hoàn toàn Lâu Đài Biệt Cư đang rơi vào tay Luvia.
Như thể Lâu Đài Biệt Cư đang chấp nhận chủ nhân mới của mình, một vòng tròn ma thuật khổng lồ hiện ra trong phòng, tiếp cận Luvia. Ngay cả một người không phải là pháp sư như tôi cũng có thể cảm thấy sự trào dâng của ma lực dày đặc căn phòng qua làn da của tôi.
"Tới rồi...!" Đôi mắt của Luvia ánh lên sự ngây ngất với chiến thắng.
Nhưng sư phụ tôi lại rên rỉ với một cảm xúc khác hẳn.
"Không phải...? Đây không đơn thuần chỉ là phản ứng..."
Chỉ có một cơn chấn động làm rung chuyển lâu đài.
Cùng lúc đó, thân người của Luvia bắt đầu lảo đảo và gục ngã. Mà cũng không chỉ riêng cô. Flue, Clown, và thậm chí Seigen cũng úp xuống sàn nhà, như thể đang ra sức chống đỡ cơ thể của chính mình.
"...Hự...Ô!"
"Ông Orlocke!"
Ngay cả ông pháp sư già cũng không ngoại lệ. Với một tiếng thốt lên kinh ngạc, ông bị kéo ra khỏi xe lăn và rơi xuống đất.
Không...
...ngay cả tôi cũng bị vậy.
Một cơn đau ảo giác chiếm lấy tay phải của tôi, như thể tay tôi bị bỏ vào lửa, như thể tất cả mọi dây thần kinh trong cơ thể tôi không còn nghe lời tôi nữa. Hệ thần kinh duy trì sự sống của tôi trong suốt cuộc đời hiện đang bị gián đoạn, và thậm chí trước khi tôi kịp nảy sinh ý nghĩ kháng cự, tầm nhìn của tôi bị mờ đi rất nhanh.
"Gray!"
Ngay cả tiếng nói đó cũng dường như quá xa vời.
Bỗng nhiên ở bên cạnh Luvia, một cái bóng hắc ám trồi lên không. Như muốn nuốt chửng lấy cô gái đang ngất xỉu, cái bóng há to cái miệng của nó.
"Chết tiệt ...!"
Điều cuối cùng mà tôi thấy là bàn tay của sư phụ tôi đang vươn đến cái túi trên ngực áo jacket của thầy.
Và sau đó, ý thức của tôi tối lại, khi sư phụ tôi, Luvia, và tôi đều bị hút vào trong cái bóng đó.
——Tất nhiên, nơi này là trong Lâu Đài Biệt Cư.
Khung cảnh trước mắt tôi là cái bàn ăn quen thuộc, nơi tất cả những pháp sư được mời đến lâu đài đã cùng nhau dùng bữa vào buổi sáng đầu tiên đó. Một vài bóng người đang ngồi vào bàn ăn đó, với dao và dĩa trong tay, cười vui vẻ, như thể chúng là một phần của tiết mục biểu diễn rối bóng[34].
"Ha. Với cái cách kết nối vòng tròn ma pháp này, thì rồi nó sẽ bị sụp đổ chỗ này chỗ kia trong vòng chưa tới một năm đâu. Ma thuật của ông vẫn còn tạp nham quá đấy."
Người vừa nói nhún vai của mình, chính là Orlocke Caesarmund. Ông không ngồi trên xe lăn. Mặc dù trên thực tế, ông ta là một người lớn tuổi, nhưng đây lại là một Orlocke trẻ hơn so với người mà tôi đã biết. Ngoài ra, cách nói năng của ông cũng hoạt bát hơn nhiều so với những gì mà tôi nhớ. Nhìn ông ta bây giờ, người ta sẽ không thể tin rằng đã từng có một vẻ tà ác hiện hữu xung quanh ông.
"Tạp nham là không tốt à?"
"Nó cũng thật là mắc ói. Như cái bản mặt của ông vậy đó."
"Thôi đi, lão già lẩm cẩm này."
"...Thôi nào, mình. Đó đâu phải là cách nói chuyện với Orlocke-sama, người đã cất công đến để giúp đỡ mình chứ?" Một người phụ nữ ngồi chung với họ nói.
Cô ấy là một người phụ nữ xinh đẹp với mái tóc xoăn. Bộ váy áo bằng vải lanh giản dị mà cô đang mặc trông rất hợp với cô.
"Phu nhân."
"Rất cảm ơn ông vì đã chịu vất vả nhé, Orlocke-sama."
——Không phải. ——Đây không phải ký ức của tôi. ——Mà là có thêm một ai đó khác đang xâm thực vào tôi.
"Phải, cuối cùng cũng hiểu ra rồi."
Một tiếng nói vang lên. Tiếng nói này lẫn cùng với một tiếng ù liên tục đến nhói tai.
"Là nó, chỉ duy nhất có nó. Đã biết ngay từ đầu rồi mà. Tại sao lại không nhận ra chứ?"
Ai thế này?
Ai thế này?
Ai thế này?
"Khắc Ấn Ma Thuật của ngươi..."
Một bàn tay đưa ra.
Và sau đó, bụp tắt một cái như thể một cuộn phim bị đứt đoạn, ý thức của tôi tối lại một lần nữa.
Có một cảm giác ấm áp trên mặt tôi.
Nghĩ kỹ thì, dường như cảm giác ấm áp đó là điều duy nhất níu giữ tôi. Đáp lại cái nhìn từ đôi mắt mệt mỏi, đờ đẫn đang hướng về tôi, tôi buông một tiếng nói lơ mơ.
"...Sư phụ?"
"Cuối cùng em cũng tỉnh rồi hả?" Thầy thở dài đáp, thu tay về. Chỉnh lại mũ chùm của tôi cho ngay ngắn, rồi thầy vỗ lên trán tôi.
"Đau-!"
"Đội cái mũ trùm cho đàng hoàng vào. Em biết là ta không muốn nhìn thấy gương mặt đó mà."
"...V-Vâng ạ." Với một lời xin lỗi, tôi giữ chặt lấy mũ chùm đầu trong lúc ngồi dậy.
"...Em có cảm giác mình đã thấy một giấc mơ. Một giấc mơ về Lâu đài Biệt Cư này."
"Hô. Nếu em thấy nó thì ta muốn nghe cặn kẽ câu chuyện đó sau, chứ tình hình bây giờ không phù hợp cho việc đó lắm." Thầy nói trong khi liếc nhìn xung quanh. "...Xem ra chúng ta bị mắc kẹt rồi. Nó đại loại như là một cơ cấu phòng vệ của Lâu Đài Biệt Cư chăng?"
Rút cuộc, tôi cũng nhận ra.
Mọi thứ trong tầm nhìn của tôi đều mang một màu tối thui. Vài mét xung quanh chúng tôi thì vẫn còn mặt sàn đá quen thuộc, nhưng ngay cả nó cũng đang dần dần biến mất vào bóng tối bao chùm.
"Ta đã ngay lập tức tạo ra một kết giới. Nhưng rốt cuộc lại bị lôi vào một kết giới lớn hơn được thiết lập ở mặt bên kia." Sư phụ tôi thở dài. "Nó không đến mức làm gián đoạn không gian, nhưng về mặt tính chất thì cũng gần như thế. Hẳn là pha mà chúng ta đang hiện hữu được dịch dời chỉ một chút lên Tinh U Giới[35]. Nếu như bị chiếm giữ hoàn toàn, chúng ta sẽ hơi khó khăn một chút trong việc duy trì sinh mệnh khi vẫn sở hữu xác thịt. Vì nó giống như là bị ném vào trong một đại dương ấy."
"Vậy thì chúng ta đang..."
"Vì đây không phải là một vùng không gian phân cách, nên đáng lẽ việc dịch chuyển chúng ta trở lại đúng thế giới là khá dễ dàng. Nếu có thể đột phá qua nó bằng lượng ma lực lớn hơn nữa thì không vấn đề gì, nhưng..."
"Thật là không may nhỉ?" Tiếng nói thứ ba vang lên.
Đó là Luvia.
"Thế nào? Là một pháp sư hạng hai, tôi rất trông mong vào ma thuật của nhà Edelfelt đấy."
"Như ông thấy đây." Luvia giơ tay phải lên.
Trên bàn tay xòe ra của cô có xếp các viên đá quý. Mỗi viên đều có một vẻ u ám mà ngay cả tôi chỉ liếc sơ qua cũng thấy rằng chúng hoàn toàn bị cạn ma lực. Có vẻ thất vọng, Luvia ném những đá tối màu xuống sàn.
"Do vụ xung kích vừa nãy mà Khắc Ấn Ma Thuật của tôi vẫn chưa thể vận hành trơn tru được."
"Khắc Ấn Ma Thuật của cô?" Khi sư phụ tôi lặp lại lời nói đó, Luvia liếc nhìn đi nơi khác như đang xấu hổ.
"Tôi đã cố kháng cự bằng bảo thạch và ma lực của riêng mình, nhưng bóng tối này thậm chí không hấp thu Gandr của tôi. Tôi đã tiêu phí nhiều bảo thạch lắm rồi đấy." Khuôn mặt của cô cau có thất vọng.
Cô không run sợ vì lo cho tính mệnh của mình. Chỉ đơn giản là lòng cô đang chối bỏ nỗi xấu hổ vì thất bại của chính mình. Dường như cô gái này là quý tộc từ tận trong xương tủy.
"...Tại sao ông lại cứu tôi chứ?" Cô thì thầm, đôi môi run run vì nỗi sỉ nhục mà cô không thể chịu đựng được.
"Cô biết mà?"
"Người thất bại thê thảm là tôi kia mà. Ông còn muốn tôi phải trông ngu ngốc đến đâu nữa hả..."
Nhìn Luvia nổi cơn thịnh nộ, sư phụ tôi thở dài và giơ ngón tay trỏ lên.
Sau đó,
"Cũng giống như cô thôi." Sư phụ tôi nói một cách buồn bã. "Hẳn cô rất hối hận về cái chết của Heine Istari. Còn tôi cũng rất tiếc nuối một tài năng kiệt xuất bị lãng phí và mất mát. Có gì không hợp lý trong câu trả lời đó không nào?"
"Tôi sẽ chấp nhận một lời biện hộ như vậy chắc?"
"Nếu hỏi về tài năng thuần túy, thì chắc chắn cô thuộc vào năm người nổi trội nhất trong số các pháp sư mà tôi đã gặp. Nếu cô nói tài năng của ai đó là một bảo vật không thể thiếu đối với thế giới, thì hẳn cô cũng đặt bản thân mình vào trong số đó đúng không?"
Miệng của Luvia hé ra như thể cô muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng cô chỉ xịu vai. "...Đã vậy thì tôi đành chịu rồi nhỉ."
Khuôn mặt của cô giống như một người cuối cùng cũng thoát khỏi trạng thái bị ma ám. Lấy ra viên ngọc mới, cô ngắm nghía nó trong lòng bàn tay.
"Với chỗ bảo thạch còn lại, tôi sẽ chuẩn bị vòng tròn ma pháp dùng cho một nghi thức đơn giản. Rồi sau đấy chúng ta sẽ thoát ra được."
"Việc đó sẽ tốn thời gian ít nhiều nhỉ? Không may là tôi chẳng thể làm được gì cả, vậy thì cho tôi nghỉ ngơi tý nhé."
"...Gì chứ hả?"
"Sau đây nhờ cô cả đấy."
Nói xong, sư phụ tôi ngồi phịch xuống, bắt chéo chân và nhắm mắt lại. Chỉ trong vài giây, hơi thở của thầy chuyển thành tiếng thở đều đều khi ngủ.
Chắc chắn, thiền định và điều chỉnh giấc ngủ là những kỹ năng cơ bản đối với pháp sư, nhưng tại sao thầy cứ phải thật giỏi và chỉ giỏi những kỹ năng cực kỳ cơ bản này? Bây giờ, khi còn lại một mình cùng với một cô gái trông như có thể nổi cơn tam bành bất cứ lúc nào, tôi không biết làm gì ngoài run rẩy vì sợ hãi.
Trong khi đó, trong phòng khách, một chuyện khác đang xảy ra.
"...Luvia-sama."
Clown, người hầu trung thành của Luvia, đang nằm trên tấm thảm, bám chặt lấy nó với một nỗ lực ngăn không cho chính mình bất tỉnh.
Anh cũng nhận ra rằng Khắc Ấn Ma Thuật của anh đã ngừng hoạt động. Clown xuất thân từ một dòng họ đã phục vụ gia tộc Edelfelt trong nhiều thế hệ, và vì vậy, anh đã thừa hưởng Khắc Ấn Ma Thuật của gia đình như một pháp sư bình thường. Tuy nhiên, khi mất đi chức năng trong Khắc Ấn Ma Thuật của mình, các dây thần kinh dùng để sử dụng nó cũng bị ngưng hoạt động, và dẫn đến nguy cơ bị mất đi ý thức.
Mặc dù bề ngoài của anh ta tưởng như phần nào hoạt động được, anh vẫn chưa điều khiển được cơ thể của mình. Bất chấp đang trong lúc rối loạn, các dây thần kinh đã dừng hoạt động trong cơ thể anh từ chối truyền đi bất cứ tín hiệu nào từ bộ não. Ma thuật và thân thể đã qua tôi luyện của anh không giúp gì được cho anh trong tình huống này, khi mà cơ thể anh từ chối cử động. Ngay cả khi trái tim anh rung lên tuyệt vọng, ý thức mờ nhạt còn lại của anh vẫn tiếp tục đấu tranh để thúc ép cơ thể hoạt động, do dù một lần chỉ được một ngón tay.
Trong khi vẫn còn ảnh hưởng của sóng xung kích trước đó, có một cái bóng chuyển động.
"Vừa rồi... là..."
Rosalind Istari ngập ngừng quay lại, nhìn quanh căn phòng.
Chỉ có cô ta là không chịu ảnh hưởng từ xung kích vừa rồi ư?
Nếu vậy thì lý do là...
Khắc Ấn Ma Thuật...?
Nếu như xung kích vừa rồi nhằm vào Khắc Ấn Ma Thuật, thì hiển nhiên là cô bé, kẻ không phải là người thừa kế của nhà Istari, không bị ảnh hưởng bởi xung kích...
Nhưng cho dù là vậy thì cô bé này vẫn sẽ...
Cửa kính trong phòng bị vỡ. Từ vị trí của mình trên sàn nhà, Clown có thể nhìn thấy cái bóng bước vào trong phòng.
Như thể được che giấu bằng một loại ma thuật nào đó, dù là trong ánh sáng ban ngày, hình dạng của nó vẫn ẩn trong bóng tối. Với một tốc độ đáng sợ, con quái thú tiến đến bằng bốn chân.
"...Con thú... của Ashborn...!"
Do bị tê liệt, Clown không thể nói được gì hơn.
Với một âm thanh rõ ràng, máu nhỏ giọt xuống sàn nhà.
Cắt vào ngón tay của chính mình, Luvia đang xoa máu lên các viên ngọc nằm trên mặt sàn đá bên dưới.
Mặc dù chỉ là ứng biến, vòng tròn ma thuật mà cô đang vẽ có một lượng ma lực đáng kể. Theo như trong một bài giảng của sư phụ tôi về sau này, phần lớn ma thuật được chia thành ba loại. Loại đơn giản nhất là truyền ma lực qua các Mạch Ma Thuật và phóng ra, được gọi là những bùa chú Single Action. Loại cao cấp hơn thì gồm một câu thần chú đơn giản và nhận thức chỉ một Thần Bí, được gọi là bùa chú One Count. Loại cuối cùng, khi bùa phép dài hơn mười dòng và hoạt động như một loại nghi thức ngụy tạo, được gọi là
Vậy nói tóm lại, khi mà một bùa chú Single Action chứng tỏ rằng nó không đủ để xuyên thủng kết giới, cô đang chuẩn bị cho một thứ lớn hơn.
"..."
"..."
Bầu không khí căng thẳng giữa chúng tôi gần như là đau đớn.
Phần lớn sự thù địch hướng từ Luvia sang người thầy vẫn đang ngủ của tôi, nhưng vì tôi ngồi giữa hai người, tôi có cảm giác như đang phải nằm trên một chiếc giường đinh. Dù thật ra tôi vốn là một người giỏi khép kín, và tôi đã không còn cố gắng hiểu người khác từ lâu, thậm chí tôi đang nguyện ý vứt bỏ lối sống đó nếu điều đó mang lại sự giải thoát khỏi cơn thịnh nộ của Luvia.
Nghĩ rằng hẳn phải có điều gì đó mà chúng tôi có thể cùng nói chuyện, tôi quyết định thử vận may của mình.
"...Ưm. Nghĩ lại thì, vừa nãy Luvia-san cứ như một hacker ấy nhỉ"
"Hacker?"
Trước câu hỏi ngược lại, tôi vội vàng trả lời.
"Ờ, sau khi đến London, tôi đã thấy nó lần đầu tiên trong một bộ phim trên ti vi, ừm, họ sử dụng các công cụ và chiếm lấy một cái máy vi tính... tôi nghĩ là nó mang cái tên gì kiểu như thần thoại Hy Lạp ấy."
"...Là Con Ngựa Gỗ Thành Troy." Hé mắt, sư phụ tôi thức dậy để cứu nguy cho tôi. "Đó là một chương trình nhằm thâm nhập trước vào máy vi tính của đối phương và cướp quyền kiểm soát nếu cần."
"À, ra thế. Vậy nên nó mới được gọi là Con Ngựa Gỗ Thành Troy nhỉ. Đó là một bức tượng khổng lồ được đưa vào trong đất nước thù địch lúc diễn ra Cuộc Chiến Thành Troy. Ở bên trong nó là Odysseus, Ajax Nhỏ, Menelaus, Diomedes. Toàn là những Anh Linh trứ danh nhỉ. Nghĩ đến chuyện thành Troy bị thiêu hủy từ bên trong, thật khiến con người ta phải rùng mình."
Có vẻ như Luvia hứng thú hơn với huyền thoại gốc.
Cuộc Chiến Thành Troy.
Trong số tất cả các huyền thoại Hy Lạp, câu truyện này thường được văn học nói đến nhiều nhất.
Hồi trước, linh mục ở ngôi làng quê tôi đã kể cho tôi nghe câu truyện này - rằng yếu tố quyết định trong cuộc chiến là Con Ngựa Thành Troy. Được giấu bên trong con ngựa gỗ khổng lồ là một toán binh sĩ kỳ cựu, và sau khi nó được mang vào bên trong kinh thành, thì điều tất yếu phải đến đã đến.
"Mà, khái niệm cơ bản xoay quanh nó thì không thay đổi mấy dù là với máy vi tính hay ma thuật. Dù có là thời cổ đại hay hiện đại thì rốt cuộc nó vẫn là thứ công cụ do con người sử dụng thôi."
"Bởi vì nói những điều như vậy trong khi là một Lord , nên ông mới không nhận được sự tôn trọng từ mọi người xung quanh đấy nhỉ?"
"...Ừm." Trước cú châm chọc của Luvia, sư phụ tôi nín thinh.
Sự im lặng đó kéo dài lâu đến không ngờ. Nó ngột ngạt đến nỗi tưởng như thầy tự dưng bị mắc nghẹn thứ gì đó. Ngay cả tôi, người thường hay phiền lòng vì sư phụ tôi, cũng cảm thấy hơi tội nghiệp cho thầy.
"Ờ, sư phụ? Thầy cũng đừng để tâm chuyện đó như vậy..."
"...Ra thế. Chính là nó. Thứ chúng ta cần chính là mảnh ghép đó."
"Ơ?"
Phớt lờ tôi, sư phụ quay sang Luvia.
"Luviagelita Edelfelt. Việc thiết lập vòng tròn ma pháp đã xong rồi chứ?"
"G-Gì vậy hả? Cái đó thì gần xong rồi, nhưng vẫn chưa 'làm quen' được đâu." Luvia ngước lên trước sự bùng phát bất ngờ của sư phụ tôi, cô có vẻ hoàn toàn không đề phòng.
"Dù thế nào, chúng ta cũng cần phải ra ngoài ngay lập tức."
"Ông nói cái gì-" Khi Luvia nhìn sư phụ tôi như thể thầy vừa mới phát điên, thầy tiếp tục thúc dục cô một cách thô lỗ.
"Nếu còn không ra ngoài thì dĩ nhiên là chúng ta, và cả những pháp sư khác đang ở nơi này, lẫn người hầu thứ hai mà cô đem theo, tất cả đều sẽ bị tàn sát hết."
Ngay khi thầy nói xong, một tiếng ồn khó chịu vang lên từ trong bóng tối xung quanh chúng tôi. Như thể ngay chính không khí cũng đang cứng lại, áp suất nén bắt đầu chèn ép lá phổi của chúng tôi.
"...Đây là?" Luvia nói, nhìn quanh quất.
Kết giới vây quanh chúng tôi đang bắt đầu mất hiệu lực. Tất nhiên, kết giới này vốn do sư phụ tôi dựng lên, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi chỉ tốn một chút công sức là có thể xuyên thủng nó.
"Có vẻ như nó đang phản ứng với hành động của chúng ta đấy." Sư phụ tôi phân tích. "Tức là nó không định cứ để mặc chúng ta bị nhốt rồi nhỉ. Với sức mạnh của kết giới này thì việc ép nén nó theo cách vật lý là không có gì khó khăn cả."
"Đây không phải chuyện đùa đâu nhé!" Luvia hét lên dữ dội khi cô đứng dậy, chĩa một ngón tay về phía bóng tối.
"Call blue, red, green for your queen!"
[Thức Tỉnh. Lam, Hồng, Lục, hãy vì nữ vương của ngươi]
Một bùa chú One Count.
Giống như gió của một cơn cuồng phong, những viên đá quý còn lại của Luvia phóng ra một luồng Gandr ào ạt. Ánh sáng màu cầu vồng quét qua mặt đất với một vẻ đẹp khủng khiếp, xua tan bóng tối ra bằng sức mạnh tinh khiết. Khi ánh sáng nhanh chóng bị nuốt chửng trong bóng tối, nó khiến tôi nghĩ đến lời dạy đầu tiên mà Chúa để lại.
Phải có sự sáng. [Sáng Thế Ký 1:3 - trích từ Kinh Thánh Tiếng Việt 1934]
…Tuy nhiên, bóng tối không nhún nhường.
Như thể đang hăm hở nuốt chửng loạt đạn ma thuật mà Luvia phóng ra, bóng tối bắt đầu tăng tốc độ xâm lấn về phía chúng tôi.
"Đừng có đùa ta chứ!" Luvia hét lên. Không ngừng tay, cô rót thêm Od của mình vào, và những viên đạn ma thuật lại được bắn ra một lần nữa. Hình thái đa sắc màu biểu lộ vẻ đẹp ngoạn mục của nó, nhưng điều rõ ràng trước mắt là quyết tâm ấy được đáp trả còn thê thảm hơn hết thảy. Không nói gì đến ma thuật thông thường, lượng đầu ra mà cô sản sinh hẳn phải giống như một cái lò hơi trong các dây thần kinh của cô. Khi các Mạch Ma Thuật của cô tiếp tục bùng cháy, chúng la hét lên đòi được nghỉ ngơi. Thông thường, Khắc Ấn Ma Thuật sẽ hỗ trợ cho ma thuật này, nhưng Luvia không hề nhắc đến chuyện khắc ấn của cô đã hoạt động trở lại hay chưa.
Thấy cô đang phải chật vật, sư phụ tôi lại cất lời.
"Luvia."
"Gì đấy? Ông định nói là mình đã tuyệt vọng và đang muốn chết trước hả?"
Kể cả khi đến nước này, không hề có chút tuyệt vọng nào trong đôi mắt cô. Không gì ngoài một sự hừng hực khí thế, như một viên ngọc đỏ rực.
Đối với cô gái đang đương đầu với nỗi tuyệt vọng này, sư phụ tôi nói.
"Hãy đừng nghĩ chúng là đá, mà là bùn."
"Hả?"
Lông mày của Luvia cau lại vì tức giận. Nếu thầy chờ thêm một giây nữa, có khả năng cô sẽ chuyển sang tấn công thầy.
Nhưng thầy không đợi thêm một giây nào nữa.
Thay vì vậy, thầy vươn tay ra và nắm lấy cổ tay cô.
"Ông-!"
"Là về Bảo Thạch ấy." Nhìn cô từ khóe mắt, thầy nhỏ nhẹ nói. "Hẳn là cô cảm nhận được xung nhịp bên trong những viên hồng ngọc. Thế nhưng nhiêu đó vẫn chưa quá phân nửa sức mạnh mà đáng lẽ cô có thể điều khiển đâu."
"...Cái... gì?"
Thông thường, đối với những câu như thế này thì cô sẽ cười khẩy. Cho dù sư phụ tôi là một Lord, Luvia vẫn giữ niềm kiêu hãnh nhiều đời của gia tộc Edelfelt. Chuyện cô sẵn lòng đặt niềm kiêu hãnh đó sang một bên dù chỉ một khoảnh khắc cũng đã bộc lộ một sự thay đổi lớn trong cô.
"Trước đây tôi cũng có nói rồi. Bản chất ma thuật nhà Edelfelt không có giá trị để tự hào. Mà đó là giá trị để lưu thông. Gió đã thổi. Nước đã chảy. Những viên đá của cô vừa nằm ở trái tim cô, lại vừa có trong mọi thứ của thế giới bên ngoài. Ngay cả bóng tối này cũng chỉ là một trong tất cả, không hơn. Giống như nước chảy từ nơi cao xuống chỗ thấp, giống như điện thế truyền từ cực cao tới cực thấp, bản thân sự lưu động năng lượng chính là sức mạnh của cô. Đồng thời với việc kích động những viên bảo thạch theo từng nhịp đập trái tim cô, hãy cảm nhận đến tận sâu bên trong của bên trong bóng tối đó."
Giống như lắng nghe một bác sĩ chuyên khoa thể dục thể thao đưa ra lời khuyên cho một vận động viên chuyên nghiệp. Tuy nhiên, thầy không chỉ dừng lại ở việc đưa ra lời khuyên học thuật của mình.
Khi Luvia nhận ra những gì thầy làm khi nắm lấy cổ tay cô, lông mày cô nhướn lên.
"Ông đang kết nối với Mạch Ma Thuật của tôi-"
Thậm chí chỉ nghe những lời đó cũng khiến tôi rùng mình. Trong khi đó, phản ứng của sư phụ tôi là hét lớn.
"Nếu cô từ chối thì cứ việc! Làm gì tùy thích đi!"
Câu mà sư phụ tôi vừa nói biểu hiện sự thiếu sáng suốt.
Bởi vì khi kết nối với Mạch Ma Thuật của người khác, người được nhận kết nối có quyền kiểm soát tuyệt đối. Đối với một pháp sư chỉ có khả năng lực trung bình, người này sẽ dễ dàng bị thao túng, hoặc thậm chí là bị đốt cháy các Mạch Ma Thuật mà người này đã kết nối. Luvia có thể phá hoại Mạch Ma Thuật của thầy từ trong ra ngoài chỉ với một ý nghĩ nảy sinh. Chính vì các Mạch Ma Thuật kết nối với các dây thần kinh của cơ thể, điều này cũng tương tự như đặt quả tim còn sống của thầy vào trong tay cô.
Nhưng cô không làm thế.
Khi ma lực dẫn qua các mạch của sư phụ tôi chuyển vào Luvia, ngay cả tôi cũng nhận thấy rằng hình ảnh bên trong của cô đã thay đổi. Hoàn toàn khác với Luvia đã đứng ở đó chỉ một lúc trước, Luvia này điều khiển dòng chảy ma thuật với sự dịu dàng tự nhiên.
Dòng chảy.
Đó là bản chất thật sự của ma thuật của cô, như sư phụ tôi đã nói.
"Được rồi chứ hả? Việc chiếm lấy Lâu Đài Biệt Cư mà cô đã thử làm, nó không hề thất bại. Trái lại, phải thấy rằng chính vì nó thành công mà hệ thống bảo mật đã được phát động. Thế thì, vòng tròn ma pháp mà cô tạo ra cũng đang tồn tại ở bên ngoài bóng tối này. Hãy đồng thời ý thức về cả bên trong lẫn bên ngoài bản thân mình. Và cô cũng có trong bản thân cảnh giới đó."
Luvia hiểu được bao nhiêu trong lời nói của thầy? Có lẽ, khi mạch của họ kết nối với nhau như vậy, từ ngữ vốn không còn cần thiết với họ nữa.
"Thuộc tính của cô là Đất. Theo bốn phân loại của 'Tự Nhiên Học' thì nó khô và lạnh. Trong khi tự nhận thức vị trí của mình, hãy lưu động sang lửa ấm và khô, gió ấm và ẩm, nước lạnh và ẩm, rồi tích lũy và áp chế nó. Với thứ ma thuật hiện đại được thực hiện bằng 'năng lượng' mà cô đã áp chế được, hãy triệu gọi Thiên Sứ. Thiên Sứ mà cô phải sưu tập đang có ở đó đấy."
Đột nhiên, năng lượng ma thuật quanh Luvia dường như vọt lên một cấp độ khác.
Dưới sự dẫn dắt bởi ma lực của sư phụ tôi, một vòng xoáy ma lực mới bắt đầu cuộn quanh cơ thể Luvia, và mọi thứ bắt đầu tăng tốc.
Ở đầu cuối các Mạch Ma Thuật đã kết nối giữa hai người, viên ngọc trong tay Luvia bắt đầu phát sáng rực rỡ hơn nữa. Ngay cả bóng tối xung quanh chúng tôi cũng bắt đầu sáng lên từ bên trong, như thể nó là một viên ngọc khác nữa của cô. Giống như tia chớp cần phải xuyên qua lớp cách điện trong không khí và tạo ra một con đường cho chính nó trước khi phóng ra, năng lượng ma thuật do Luvia điều khiển đang cố gắng xuyên qua bóng tối và tạo ra một con đường trước khi Luvia phóng ra bùa chú của mình.
Nhưng, trong một khoảnh khắc trước đó... tôi nghe thấy âm thanh khó chịu của chất lỏng bắn tung tóe trên sàn nhà.
Hòa cùng viên hồng ngọc rực rỡ, lưng bàn tay của sư phụ tôi nhuốm một màu đỏ đậm.
"Sư phụ-!"
"Ông-"
Khi Luvia và tôi kêu lên,
"Không vấn đề gì. Chỉ là mạch máu và dây thần kinh ở lân cận bị thương tổn do thứ ma lực không quen đấy thôi." Sư phụ tôi ngắt lời chúng tôi, khuôn mặt thầy không tỏ ra cảm xúc gì.
Kể cả khi ma thuật không quen ấy phá vỡ các dây thần kinh và mạch máu của sư phụ tôi, thầy vẫn không đến mức run rẩy. Khi sự kiểm soát của thầy đối với năng lượng ma thuật của Luvia trở nên ngày càng chính xác hơn, thầy chỉ tiếp tục quan sát bóng tối đang xâm lấn. Đối với tôi, dường như đôi mắt đó làm liên tưởng đến một cục than cháy âm ỉ.
"Bắn!"
Nghe tiếng hét của thầy, Luvia hồi đáp bằng một câu thần chú.
- "
Call !"
Với câu chú ấy, viên đạn được bắn ra. Trong chốc lát, ánh sáng dồn nén được bung ra phía trước, đánh tan bóng tối - giống như hình ảnh tấm kính bị vỡ.
Bỗng nhiên, tầm nhìn của chúng tôi tràn ngập màu sắc.
"...Chúng ta... ra được rồi?"
Tôi lảo đảo đứng dậy.
Hình như chúng tôi đang ở trong một hành lang cách xa một chút so với căn phòng cho khách. Chiếu qua cửa sổ gần đó là ánh mặt trời vào đầu giờ chiều, lấp ló sau các đỉnh núi xa xa.
"Có vẻ như xung kích phá vỡ kết giới đã làm chệch tọa độ của chúng ta rồi nhỉ."
Luvia phủi nhẹ lên bộ váy áo của mình trong khi ngượng ngùng đứng lên từ sàn nhà. Ngay cả sau khi sử dụng một ma thuật cỡ đó, cô có vẻ không hề mệt mỏi chút nào. Cô ta thậm chí còn vượt trên trình độ của một pháp sư hạng nhất nếu nói riêng về sức mạnh của Mạch Ma Thuật của cô.
Đột nhiên, tóc tôi dựng đứng lên.
Gần đó, tôi có thể thấy sư phụ tôi đang đứng lên, nhưng bộ dạng của thầy khiến tôi hoài nghi trong một thoáng rằng liệu đây có phải là thầy hay không. Lau vết máu trên tay bằng một chiếc khăn tay, thầy trông như đầy cảm xúc một cách bất thường.
"...Sư phụ?"
Kể từ khi chúng tôi đến Lâu Đài Biệt Cư, Luvia đã thể hiện trước chúng tôi phần nào sự thù địch. Nhưng sư phụ tôi chưa bao giờ bật lại sự căm ghét đó - không, sư phụ tôi chưa từng bộc lộ sát ý này đối với bất cứ ai bao giờ.
"Lũ người các cô... thực sự là hèn nhát mà."
Tựa như đây là lời nói lọt được ra từ sâu trong bụng dạ của thầy.
"...Có điều, là thiên tài thì sẽ vút bay đến nơi cao một cách dễ dàng. Còn tôi thì chỉ tự do bay quanh bầu trời mà mình tưởng tượng mà thôi."
Đó là những lời thật nặng nề và khó nhọc kinh khủng.
Đối với sư phụ tôi, ma thuật chỉ đơn giản là điều quan trọng với thầy. Cho dù đó là một bí mật mà thầy che giấu trong hành vi bình thường của mình, thật sự nỗi đau ấy ra sao khi chứng kiến một trình độ mà thầy sẽ không thể nào đạt được, cho dù thầy có đấu tranh đến giây phút cuối cùng?
Luvia im lặng một lúc.
"Tôi cũng không thể tha thứ cho ông. Cho dù bầu trời có sập xuống đi nữa."
Một biểu cảm của người châu Âu cổ. Thường được sử dụng ở Celtic hoặc ở các nền văn hóa Bắc Âu khác khi đưa ra một
Thở ra một chút, Luvia lại nhìn sư phụ tôi một lần nữa.
"Thế nhưng mà, tôi có thể hỏi ông một câu chứ?"
"Tùy ý cô thôi."
Sư phụ tôi thờ ơ đáp.
"Mười năm về trước, ông nghĩ thế nào... khi thầy của mình, Kayneth El-Melloi Archibald chết?"
(...A.)
Bản thân tôi cũng còn cảm thấy nhịp tim mình nhảy vọt lên trước câu hỏi đó.
Sự kiện Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ tư, lúc mà sư phụ đã giết chết thầy của mình. Một thời kỳ mà tôi không hề hay biết.
"Chẳng biết cô có tin nổi hay không, nhưng..." Thầy nói, "Không phải tôi đã giết chết thầy Kayneth. Mà đó là Anh Linh của Kiếm, Saber, cùng Master của cô ta. Tôi thậm chí còn không được chứng kiến xem cái chết của thầy Kayneth diễn ra như thế nào. ...Nhưng về sau, khi biết chuyện, quả thực tôi đã rất đau buồn."
"Đau buồn ư?"
"Cả việc một tài năng đến mức đó bị mất đi một cách vô ích, lẫn việc mình đã không thể cùng chia sẻ những cảnh sắc mà con người ấy từng chứng kiến lấy một lần, đều khiến tôi tuyệt đối đau buồn. Chỉ có thế thôi. Tôi không biết cách nói nào cho thanh nhã hơn được, xin lỗi cô."
"...Ra vậy."
Dưới ánh nắng, Luvia nhắm mắt lại. Sau một vài giây, cô mở mắt ra một lần nữa, và dùng một giọng trang nghiêm để tuyên bố.
"Đã thế thì, ông sẽ là gia sư hướng dẫn của tôi."
"...Hả?"
Sư phụ tôi chỉ biết chớp mắt trước câu nói hoàn toàn bất ngờ.
"C-Chờ đã. Chính cô đã nói tôi là kẻ phá hoại ma thuật cơ mà."
"Đúng là tôi có nói. Và suy nghĩ đó cho đến giờ vẫn chưa hề thay đổi. Thế nhưng lúc này ông cũng đã chứng minh rằng mình không chỉ có thế."
Vô cùng lịch sự, Luvia giải thích.
"Hơn nữa, ông còn can thiệp vào ma thuật của người khác nữa. Một khi đã kết nối với Mạch Ma Thuật của tôi, thì cũng tương tự như việc ông chạm tay vào những bí mật của nhà Edelfelt vậy Đã biết đến mức đó rồi thì tôi đâu thể bỏ mặc được. Nhưng nếu ông làm gia sư hướng dẫn cho cá nhân tôi thì tôi có thể sẽ không truy vấn gì nữa đâu. Phải rồi, đằng nào tôi cũng định sẽ vào học ở Tháp Đồng Hồ từ năm sau mà."
".........Hả?"
Một lần nữa, sư phụ tôi bị làm cho chết lặng.
Suy nghĩ đó thật là đúng đắn đối với một pháp sư. Tuy nhiên, nó lại đúng đắn quá mức và quá xa cách với những pháp sư nguyên gốc. Cách làm của cô gái này là một phương pháp tấn công trực diện kết nối với bất cứ nơi đâu trên thế giới, như một pháp sư yêu quý cả đêm tối và mặt trăng, một thứ đồ thay thế mà thậm chí có thể gọi là món hàng hóa khiếm khuyết thì đúng hơn.
Khi tôi đứng ở một bên, không thể làm gì ngoài đưa mắt tới lui trong sự bối rối, thì một âm thanh dễ chịu bất ngờ vang đến.
Sư phụ tôi cười. Ngay cả trong tình huống này, thầy vẫn cười như thể đã quên hết mọi thứ.
"Chính trực thật đấy." Sư phụ tôi nói, dụi đôi mắt của mình.
"C-Cái gì hả?"
"Là cái cách tồn tại của cô ấy."
Câu nói của sư phụ tôi khiến Luvia không nói nên lời. Đối với tôi thì có vẻ như đôi tai của cô ấy bắt đầu ửng đỏ, nhưng tôi không dám chắc. Quay mắt đi hướng khác, cô cuối cùng cũng hỏi tiếp.
"D-Dù sao đi nữa, mong muốn của tôi thì thế nào hả?"
"Vụ làm gia sư hướng dẫn thì để sau hẵng nghĩ đến đi. Đằng nào, nếu cô có nguyện vọng vào Khoa Ma Thuật Hiện Đại thì tôi đây cũng chẳng có quyền ngăn cản. Nhưng liệu cô có qua được hay không thì chẳng đảm bảo được đâu đấy."
"À há, lại có chuyện tôi không qua được hay sao chứ?"
Luvia nói, vẻ thách thức rõ ràng trong giọng nói của cô.
Tuy nhiên, cả hai người họ đã chuyển sự chú ý sang một vấn đề khác.
"Nhưng mà, trước hết là vụ án này đã nhỉ."
"Ừ. Bây giờ chúng ta phải giải quyết cho xong Lâu Đài Biệt Cư này đã. ...Được chứ? Gray?"
"...V-Vâng ạ."
Ngạc nhiên vì bị gọi bất ngờ, tôi gật đầu liên tục.
Chương 5[]
Quay trở lại căn phòng, cảnh tượng trước mắt chúng tôi khủng khiếp cùng cực.
Các bức tường và đồ đạc trong căn phòng bị phủ lên một lớp máu đậm, và rất nhiều mẩu thịt nằm rải rác trên sàn nhà đến nỗi khó mà tìm được một chỗ để đứng.
Luvia bịt miệng lại chỉ trong giây lát trước khi lao vào phòng.
"Clown!"
"...Cô chủ."
Người hầu nam cố gắng ngồi dậy trên hai đầu gối của mình. Dường như ngay cả việc hít thở cũng gây đau đớn cho anh ta.
"Tôi xin lỗi..." Lời nói của anh làm liên tưởng đến một cái cây đã héo quắt từ lâu.
Có vẻ như cú sốc đã vô hiệu hóa khắc ấn của Luvia cũng có ảnh hưởng tương tự lên vệ sĩ của cô ta. Không, nếu so sánh giữa hai người thì tình trạng của Luvia ít nghiêm trọng hơn nhiều. Có lẽ rút cuộc anh ta đã tìm được cách nào đó để có thể phần nào bảo vệ cô.
"Đã có chuyện gì vậy?"
"Ngay sau lúc ấy... một con quái vật đã xuất hiện... Nó đã bắt Rosalind-dono đi... Seigen-dono vì bảo vệ cô ấy nên cũng đuổi theo rồi..."
"Quái vật? Thực sự có một thứ như vậy sao..."
Ánh mắt của Luvia dịch chuyển khi cô nói.
"...Hic...Hic..."
Ở một góc khác của căn phòng, Flue ngồi trên sàn, thở khó nhọc. Dường như ông cũng đã xoay sở sống sót qua cuộc đụng độ. Với những con dao nằm rải rác xung quanh, có vẻ như ông đã ẩn nấp bên trong một kết giới nào đó. Như thể đang gặp khó khăn trong việc giữ tỉnh táo, ông liên tục xoa lên quanh vùng lông mày.
"Đó là một con quái vật cẩn trọng và khôn khéo... Trước khi chúng tôi kịp hồi phục đầy đủ các chức năng, nó đã lập tức giết chết đối thủ nguy hiểm nhất rồi. Phải, tôi thậm chí còn không chiêm ngưỡng rõ được bộ dạng của nó..."
"Vậy thì, đây là..."
Đáp lại câu hỏi của sư phụ tôi, Flue gật đầu.
"Là ông già Orlocke đấy..."
Nhà chiêm tinh chỉ ra một xác chết hoàn toàn không thể nhận diện được.
Tan nát theo nghĩa đen, cái xác trông tệ đến mức chúng tôi thậm chí còn không thể xác định phần nào nằm ở đâu trên cơ thể của ông ta.
Nạn nhân thứ ba.
Nhưng đây không còn là một hiện trường phạm tội nữa. Đây giống như một thảm họa thiên nhiên. Ngay cả ông pháp sư già ấy cũng không thể thoát khỏi cơn thịnh nộ của Lâu Đài Biệt Cư.
Nhưng,
"Orlocke Caesarmund."
Đứng giữa căn phòng, sư phụ tôi cất tiếng gọi. Bối rối trước điều mà sư phụ tôi nghĩ mình đang làm, tôi quay sang đối diện với thầy.
"Sư phụ, cái gì..."
"Sai rồi. Không phải cái xác chết di động đằng kia."
Bỏ qua câu hỏi của tôi, sư phụ tôi tiếp tục.
"Mà là ông đấy. Orlocke Caesarmund."
Đáp lại lời thầy, một bóng người khác gần đó bắt đầu từ từ đứng dậy.
Đó là trợ lý của Orlocke.
"Ông mới là Orlocke Caesarmund thật sự."
"Ể...?"
Khi nhìn sang cậu trợ lý của Orlocke với ánh mắt hoang mang, tưởng tượng của tôi về cậu ta đã đổ vỡ.
Nhiếc khóe miệng vẫn còn dính máu người chủ của mình, cậu bé vốn chưa bao giờ thay đổi nét mặt đang mỉm cười dịu dàng.
"Nói 'thật sự' là không chính xác đâu. Vị Lord trẻ tuổi ạ."
"Ư..."
Tôi tự dưng ực một cái. Tuy hình hài và giọng nói hoàn toàn khác, nhưng không nghi ngờ gì nữa, những lời này là của Orlocke Caesarmund. Cách nói chuyện của cả hai không chỉ tương tự nhau, mà là giống nhau y hệt.
"Thứ được sao chép lại dù sao cũng chỉ là ký ức và nhân cách mà thôi. À mà, vẫn còn khoảng mười phần trăm còn lại ở cơ thể gốc đấy."
Cậu - Orlocke cười.
"
"Ta muốn nói rằng cậu có cái nhìn rất sắc bén, nhưng cậu không thể để cho cái thân già này thêm chút vẻ vang được sao?"
Cậu nói, xoay tròn ngón tay của mình.
Tôi đã nghe nói
Tuy nhiên, được nghe kể và được nhìn thấy là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Trước sự biến hóa thật quá sức tưởng tượng này, tôi chỉ có thể cúi mình rên rỉ mà thôi.
"Tự thân cái cơ thể này vốn là một Homunculus, sinh mạng nhân tạo được làm từ tinh dịch và máu của ta. Sự thật là ta đang cấy ghép từng chút một cùng với Khắc Ấn Ma Thuật và sẽ di chuyển nhân cách của mình hợp lại sau cùng, nhưng vì chuyện này đột ngột xảy ra nên rốt cuộc nó đã bị thiếu hụt mất khoảng mười phần trăm đấy. Do cuộc đột kích kỳ lạ vừa nãy mà phần còn lại cũng đã ngừng hoạt động giữa chừng."
Cậu Orlocke nói với giọng khó chịu.
Trên thực tế, cái việc bị thiếu hụt khoảng mười phần trăm ấy không phải là điều có thể nói đến một cách nhẹ không như vậy. Đặc biệt, với những Khắc Ấn Ma Thuật có lịch sử lâu đời thì dù chỉ mười phần trăm cũng tương ứng với thời gian vài chục năm trời... Bởi vì nó được hoàn thành bởi chính sinh mạng của những pháp sư đi trước. Thế nhưng, trong trường hợp người đã bắt đầu suy lão như Orlocke thì có khi sự tình lại khác? Với cái cách kể chuyện đó thì nói đúng hơn là ông ta chỉ đang có một thứ cảm xúc duy nhất là nhẹ nhõm mà thôi.
Trong khi đó, sư phụ tôi lại bặm môi và nói.
"Về chuyện đó, tôi có việc cần thảo luận với ông đây."
"Hô?"
Khi cậu bé nghiêng đầu sang một bên, Luvia xen vào giữa họ.
"El-Melloi II. Quan trọng hơn, chúng ta phải mau chóng đi tìm con quái vật đó đã."
"Không cần. Tôi có thể đánh cược rằng con quái vật đó sẽ không làm hại cô Rosalind đâu."
Sư phụ tôi ung dung vuốt cho mái tóc của mình khỏi chắn tầm nhìn. Giọng nói của thầy tỏ vẻ thấm mệt, nhưng hình như tôi là người duy nhất chú ý đến điều đó.
Nheo mắt dưới ánh nắng chiếu qua cửa sổ bị vỡ, sư phụ tôi nói như đang cố vắt ra những lời từ trong đáy lòng.
"Vậy, hãy kết thúc chuyện này thôi nào."
Mặt trời đã hoàn toàn khuất bóng ở chân trời, và Lâu Đài Biệt Cư chìm trong bóng tối.
Là một lâu đài nép mình giữa các ngọn núi, nó thật sự không phải là lâu đài có thể được sử dụng cho một trận chiến kiểu xưa. Ngôi làng gần đây nhất cũng cách tới mười cây số, và cách duy nhất để đến được nơi đó là đi theo những con đường mòn xuyên qua khu rừng. Cho dù có là một nhà leo núi chuyên nghiệp cỡ nào, thì trong tình huống này vẫn là nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Tất nhiên, điều đó chẳng là gì đối với 'nó'.
Bò trên các bức tường của lâu đài như một con nhện, 'nó' chọn một vị trí gần đỉnh tháp chuông và chú ý lắng nghe.
Mục tiêu của nó là một người duy nhất.
Ngọn lửa thù hận đang cháy trong phổi của nó sẽ không tắt, chừng nào người đó vẫn còn sống. Nó hiểu điều đó đến mức đau đớn, nhưng cơn đau đó chỉ làm củng cố thêm quyết tâm của nó. Cho dù có chuyện gì xảy ra ở đây, điều duy nhất mà nó không thể chấp nhận là để cho người đó trốn thoát. Nhằm ngăn ngừa khả năng đó, nó kích hoạt tất cả các dây thần kinh và mạch ma thuật trong người.
Lâu Đài Biệt Cư chính là đồng minh của nó.
Nơi nào có Thiên Sứ, nơi đó có bàn tay và đôi mắt của nó.
Đôi mắt đó nhanh chóng phát hiện ra một khiển sứ linh đang lảng vảng gần các bức tường của lâu đài.
Bươm bướm.
Có một số con bướm, phát ra ánh sáng như đom đóm, bay trong khu vực của lâu đài. Các khu vườn của lâu đài, các bức tường, kể cả lối ra vào tháp canh đều bị chúng vây quanh. Không nghi ngờ gì, chúng đang cố gắng bảo vệ một lối thoát. Dù gì thì vào hiện tại, có vẻ như những khiển sứ linh này chỉ được dùng để quan sát xung quanh.
Những con bướm... không thể nào nhầm được.
Việc tên pháp sư già đó vẫn còn sống đã nằm ngoài trí tưởng tượng hoang đường nhất của nó, nhưng điều đó chỉ có một ý nghĩa rằng nó sẽ phải giết ông ta một lần nữa. Nghi lễ có thể tiếp tục sau khi việc đó hoàn thành.
Vì vậy, nó vểnh tai về phía trước, tìm kiếm nơi xuất phát của những con bướm kia.
Âm thanh sinh ra từ việc kích hoạt ma thuật là điều không thể tránh được. Hơn nữa, ma lực được sử dụng có những hiệu ứng sóng âm đặc thù, và nó học được từ kinh nghiệm làm sao để biến thông tin đó thành một lợi thế. Nếu nó có thể bắt được một con trong số những con bướm đó, nó có thể dùng nó để tìm ra con đường trực tiếp dẫn đến chỗ chủ nhân của chúng. Nó không biết chủ nhân của chúng ẩn thân bằng cách nào, dù sao thì nó chỉ việc lôi kéo lão ta ra ngoài.
Nó bắt đầu bò ngang qua bức tường.
Điểm đến của nó là pháo đài.
Nếu có điều gì mà nó tự tin thì đó chính là sự nhanh nhẹn của bản thân nó. Đối với nó, di chuyển từ bức tường đến cổng chẳng khó hơn hít thở.
Ngay cạnh lối vào pháo đài, có một con bướm bay lên, hoàn toàn không nhận thấy sự hiện diện của nó. Không thể kìm nén được niềm hân hoan, miệng của nó ngoác thành một nụ cười khi nó vươn tay về phía khiển sứ linh.
Một khắc sau, ánh sáng lóe lên.
Không lường trước là có ánh sáng này, nó lưỡng dự. Giống như một ma cà rồng đột nhiên gặp phải ánh sáng mặt trời.
"...Quả nhiên là đã xuất hiện rồi nhỉ."
Và một người thanh niên lẩm bẩm.
Trong tay anh ta là một chiếc đèn lồng bằng đồng gỉ sét. Rõ ràng là được lấy ra từ trong lâu đài, mùi dầu cháy nhanh chóng bao quanh không khí.
"Phải, dĩ nhiên những con mồi khác cũng quan trọng, nhưng ngươi chẳng thể để cho mục tiêu số một trốn thoát được."
Có những tiếng bước chân.
Sau lưng người thanh niên, một số pháp sư đang bước tới. Không ai trong những người này có ý che giấu sự ngạc nhiên trên khuôn mặt của họ.
"Ờ, thế này nghĩa là sao vậy?"
"Là đúng như ông đang thấy đấy thôi."
Người thanh niên giơ chiếc đèn lồng lên.
Ánh sáng lung linh của chiếc đèn lồng soi rõ hình dáng của một người đàn ông.
Kể cả không đeo khăn quấn đầu hoặc ốc xà cừ, hình dáng của người này không thể nào bị nhìn nhầm lẫn được. Khuôn mặt của anh ta, vốn thường tạo ra ấn tượng về một tên ngốc cho dù có thêm tấm bịt mắt, không hiểu sao lại trở nên ủy mỵ trong bóng đêm.
Nếu như là bất cứ nơi nào khác...
Giơ một chiếc đèn lồng cũ khác lên cao, Lord El-Melloi II tuyên bố.
"Hung thủ chính là ngươi. Tokitou Jiroubou Seigen... Không, là con trai của Geryon Ashborn, Granid Ashborn."
Trong bóng đêm, tôi từ từ ngẩng đầu lên nhìn.
Hiện có năm pháp sư tập trung ở lối vào tháp canh của Lâu Đài Biệt Cư.
Sư phụ tôi.
Luvia.
Flue.
Orlocke, bây giờ đang trong hình dạng của một cậu bé.
Và cuối cùng là, Tokitou Jiroubou Seigen.
Bốn người trước đều đã được che khuất bên trong khu rừng ở tiền viên bằng ma pháp trận, giống như tôi bây giờ. Clown ở lại một mình trong phòng, để đề phòng trường hợp khẩn cấp.
Người đã dựng nên các vòng tròn ma thuật này là Flue. Mặc dù anh ta phàn nàn rằng việc thiết lập nhiều vòng tròn ma thuật giống nhau trong cùng một khu vực khiến chúng trở nên yếu hơn, nhưng rút cuộc thì anh ta là người thành thạo nhất trong số chúng tôi về lĩnh vực ma thuật định hướng, thế nên sư phụ tôi mới có thể thuyết phục anh ta.
Cặp mắt của Flue giờ đang đảo qua lại như điên.
"Ê này, anh nghiêm túc đấy hả? Tạm chưa bàn đến chuyện hung thủ, nhưng anh ta mà là con trai của Geryon Ashborn sao?"
"P-Phải, ông đang nói cái gì vậy?"
Seigen xua tay phủ nhận theo một kiểu vô cùng điển hình đối với anh.
Chỉ vào băng bịt đầu và con ốc xà cừ, rồi còn tự véo lên má, anh nói tiếp.
"Dù có nhìn như thế nào thì tôi cũng đâu có điểm nào giống, không phải sao? Tôi vừa suýt soát chạy thoát khỏi con quái vật đó đấy. Hãy mau chóng đi cứu Rosalind-chan nào."
"......"
Sư phụ tôi khẽ thở dài một tiếng. Đặt đèn lồng xuống dưới chân, thầy hắng giọng.
"Vậy thì, để tôi bắt đầu từ khởi nguồn của sự kiện này nhé?"
Gió đêm thổi, đưa đến tiếng lá cây xào xạc từ những cái cây gần đó. Nghe như tiếng nói của tiên. Hoặc, vì nơi đây là Lâu Đài Biệt Cư, có lẽ đúng hơn nên gọi chúng là những lời thì thầm của các Thiên Sứ.
Hỡi Đức Chúa, người đã đi đâu rồi?
Đâu rồi hỡi người xứng đáng ngồi trên chiếc ghế thẩm phán đối với chúng tôi?
Sư phụ tôi cho tay vào áo khoác và lấy ra lá thư mời.
"Ngay từ đầu, lá thư mời này là gì nào?"
"Là gì á... thì là để quyết định người thừa kế di sản."
Cắt lời Luvia, sư phụ tôi tiếp tục.
"Hãy nói một cách thẳng thắn hơn. Tại sao chúng ta lại tụ tập ở lâu đài này? Một câu đố nhằm tìm ra đối tượng thừa kế thích hợp ư? Chắc chắn mọi người đều hiểu quá rõ rằng, một chuyện như vậy chẳng hề liên quan gì đến bản chất của pháp sư."
Không, sai rồi.
Chính sư phụ mới là người biết quá rõ điều đó hơn ai hết. Cho dù có tiếp cận bản chất của ma thuật bằng tri thức nhiều đến đâu, thì khoảng cách giữa sư phụ và ma thuật cũng không hề thu hẹp lại dù chỉ một chút. Trái lại, chắc chắn càng hiểu rõ thì thầy ấy chỉ càng hiểu được rằng khoảng cách đó có thể nói là vĩnh viễn.
Tôi tự hỏi, làm sao thầy ấy có thể chịu đựng nổi một điều như vậy chứ?
Tôi không biết nữa.
Hay là, đối với sư phụ thì đó đã là một điều hiển nhiên ngay từ đầu rồi?
"...Lord El-Melloi II."
Với một tiếng rên rỉ, Flue nói với sư phụ tôi.
"Nếu vậy thì... Cuộc hội họp này là gì chứ?"
"Whydunnit. Tôi chỉ có thể biết được mỗi lý do của nó mà thôi. Không, là tôi đã biết được rồi."
Thầy trả lời với một cái gật đầu.
"Một pháp sư mong muốn đứa con trai kế thừa ma thuật của mình. Chỉ có thế mà thôi."
Sự im lặng buông xuống.
Mọi người ở đây đều có thể thông cảm với thực tế đó. Đối với một pháp sư, đây chỉ là cách mà mọi thứ diễn ra. Nhưng đồng thời, đối với trường hợp này, đây là một lý luận mà không có vẻ gì là áp dụng được.
"Lord El-Melloi II, anh điên rồi à? Trước hết, đây cũng là lần đầu tiên tôi được nghe rằng mình là con trai của Geryon Ashborn đấy."
Seigen, dù đang bị gọi là thủ phạm, vẫn nói trong khi đặt một ngón tay lên vùng thái dương của mình.
"Ta cũng đã tham dự lễ tang của đứa con trai đó tại đây. Chắc chắn nó đã chết rồi mà. Hay cậu đang nói đó là hàng giả hả?"
"Phải, như ông Orlocke đã nói. Xác chết đó đúng là hàng thật."
"'Ta'? Ê, cậu là Orlocke đó sao? Chuyện quái gì đây hả?"
Phớt lờ lời chen vào của Seigen, sư phụ tôi tiếp tục.
"Chính vì cái chết của con trai Geryon Ashborn mà sự kiện này mới bắt đầu đấy."
"Cậu đang nói gì đấy?"
"'Phục Nguyên Sư' khôi phục Khắc Ấn Ma Thuật."
Sư phụ tôi lặng lẽ nhắc đến ngoại hiệu của Ashborn.
Phục Nguyên Sư. Hiếm có ngay cả trong thế giới pháp sư, người có thể khôi phục một Khắc Ấn Ma Thuật về lại trạng thái ban đầu của nó. Một nhân vật vô song đối với một Điều Hưởng Sư thông thường.
"Hoặc là, mọi người đã từng nghe một câu chuyện thế này chưa? Một người được cấy ghép cơ quan nội tạng như trái tim và lá gan có thể sẽ tiếp nhận những ký ức và tình cảm của người kia."
Phẫu thuật cấy ghép. Sau khi được cấy ghép một bộ phận quan trọng như một quả tim, người nhận đột nhiên sẽ có sự thay đổi về sở thích hoặc tính cách. Hoặc người này đột nhiên có tài chơi dương cầm, mặc dù trước đó chưa bao giờ chạm vào một chiếc đàn piano. Tuy tôi đã đọc được những thông tin như thế qua các tạp chí, nhưng đối với tôi, chúng vẫn nghe giống như những truyền thuyết đô thị hơn.
"Không, xin hãy đợi đã. Sao ông lại đi nói về chuyện cấy ghép chứ? Bí thuật của Ashborn là khôi phục Khắc Ấn Ma Thuật mà..."
"Và vật liệu để làm việc đó là gì nào?"
Sư phụ tôi gạt đi câu hỏi của Luvia bằng một câu hỏi của mình.
"Thứ gì sẽ lấp đầy một Khắc Ấn Ma Thuật bị tổn thương đây? Để lấp đầy những phần đã mất của Khắc Ấn Ma Thuật, thì thứ gì sẽ là phù hợp nhất?"
"Nếu muốn nói đến Khắc Ấn Ma Thuật, thì ông đang sai lầm từ căn bản rồi đấy. Chính vì không thích hợp với người khác nên nó mới là Khắc Ấn Ma Thuật chứ."
"...
Đây không phải là câu nói của sư phụ tôi.
Mà là của tôi.
Không hề nhận ra rằng những pháp sư ở đây đều đã chuyển sự chú ý của họ sang tôi, tôi bắt đầu nhớ lại những chi tiết quan trọng.
- Phục Nguyên Sư về Khắc Ấn Ma Thuật.
- Khắc Ấn Ma Thuật, thứ tương tự như "nội tạng" của người khác.
- Và Papilio Magia, phép thần bí giúp biến-đổi-thành-một-sinh-vật-hoàn-toàn-khác, từ sâu bướm chuyển qua nhộng cho đến bướm.
Nếu đó là sự thật ...
Nếu đó là sự thật, và Seigen thật ra là Granid Ashborn...
"Orlocke Caesarmund. Ông có nói rằng mình đã từng cùng nghiên cứu với chủ nhân của nơi này."
Sư phụ tôi hỏi ông pháp sư đã trẻ lại.
"Bây giờ thì tôi hiểu được, đó là loại nghiên cứu gì rồi."
Orlocke không thể đáp lại ngay. Thay vào đó, Seigen hét lên một tiếng giận dữ.
"Thật hoang đường!"
"Vậy sao? Đó vốn là một câu nói chẳng hề thích hợp với pháp sư mà nhỉ."
Sư phụ tôi dời ánh mắt sang nhìn Seigen vừa la hét như thể anh ta đang giả ngốc. Sau đó, thầy lấy ra một cuốn sổ tay bọc da.
"Đây là thứ mà tôi tìm thấy lúc nãy trong căn phòng bí mật mà cô Luvia đã điều tra. Dường như nó là danh sách các pháp sư từng tiếp nhận việc phục hồi Khắc Ấn Ma Thuật. ...Có ghi chép cả tên của anh, Tokitou Jiroubou Seigen đấy."
"Hể...!?"
Giọng Seigen chuyển từ giận dữ sang ngạc nhiên. Ngược lại, sư phụ tôi tiếp tục bài giảng mà không chờ thêm.
"Anh đã từng tiếp nhận biện pháp khôi phục Khắc Ấn Ma Thuật tại lâu đài Biệt Cư này."
Dù ở trong tối, tôi vẫn có thể thấy khuôn mặt của Seigen trở nên nhợt nhạt. Giống như cú chặt từ cái rìu của một kẻ hành quyết, những lời của sư phụ tôi tiếp tục tuôn ra mà không chút chậm trễ.
"Việc làm đó là một bản sao hỏng của việc hồi sinh người chết."
Sư phụ lại tiếp tục.
"Cho dù kế thừa ký ức và tình cảm của người chết, thì đó vẫn là một thứ khác với cái người đã chết được nhắc đến kia. Nó chỉ là việc chèn cùng một dữ liệu vào ổ đĩa cứng. Cho dù đã đến gần với trình độ Ma Pháp, thì cũng không có biểu hiện gì là nó sẽ chạm được đến đó cả. Bất cứ ai sử dụng loại ma thuật tương tự cũng nên nhận thức rõ điều đó."
"Thật đáng xấu hổ. Đáng tiếc là, đúng vậy, Đệ Tam Ma Pháp vẫn là lối đi tắt."
"Cho nên không cần phải nói cũng hiểu rằng một ma thuật mà thậm chí không thể đạt đến trình độ của Papilio Magia thì không có khả năng đến được đó."
Tiếp theo lời bình luận của Orlocke, sư phụ tôi đổi sang một giọng nói lạnh lùng dứt khoát.
"Kết quả là, người chết Granid Ashborn đó đã bị 'bóc tách' ra. Và trở thành một vật sống như là một phần của cái cơ thể đã bị pha trộn làm nguyên liệu Khắc Ấn Ma Thuật mới của anh."
Giống như một tin tặc.
Hoặc Trojan Horse.
"...Anh đùa đấy à?"
Seigen nói, dang rộng đôi tay.
"Tôi là Tokitou Jiroubou Seigen chứ."
"Chắc chắn tôi vừa nói rồi mà. Suy nghĩ đó của anh không hề mâu thuẫn với giả thuyết này. Nếu muốn phủ định nó, anh cần phải đưa ra những tài liệu khác kìa. ...Nói thêm nữa, điều đó cũng khiến chứng cứ ngoại phạm đã có của anh trong vụ việc của Heine trở nên vô nghĩa. Nếu anh là Granid Ashborn thì những người hầu hẳn sẽ sẵn lòng dàn xếp câu chuyện đó rồi."
Sư phụ tôi buồn bã nói.
"Việc chúng ta không bị giết cùng một lượt, hẳn là vì việc xử lý bảo tồn Khắc Ấn Ma Thuật sau khi chủ nhân của nó bị giết sẽ phải mất một thời gian tương xứng... có lẽ là khoảng tròn một ngày. Việc dệt lên cái cảm giác về một nghi thức bằng cách sử dụng 'Tên Thiên Sứ' cũng là để không ai thấy kỳ quái khi từng người bị giết lần lượt đúng không nào? Việc Adashino Hishiri bị xiên và thi thể của Heine được để ở cùng một chỗ cũng vậy nữa."
"Tôi..."
Cùng lúc mà Seigen đang bắt đầu dao động, một thứ khác phản ứng lại.
Không ai để ý thấy sự hiện diện của thứ đã nhảy xuống từ trên tháp canh của Lâu Đài Biệt Cư cho đến khoảnh khắc cuối cùng. Đáp xuống đất, lực tác động của nó làm bốc lên một lớp bụi mù cuộn về phía chúng tôi.
"Sư phụ!"
"Ừ..."
Như để bảo vệ Seigen, con quái vật bước tới trước.
Ngọn đèn vẫn sáng trên sàn nhà, chiếu lên từ dưới chân sinh vật này. Nó trông giống như một loài sói hoặc nhện khổng lồ, với chiều cao có khi hơn hai mét. Da của nó, dính đầy bùn và máu, trông giống như lớp vỏ giáp bằng kim loại. Nhưng điều rắc rối hơn là có những mẩu tạp nham từ cơ thể con người vẫn còn dính trên nó.
"...Hỏi cái tên Thiên Sứ."
Sinh vật gầm gừ.
"...Hỏi cái tên Thiên Sứ."
Sinh vật gầm gừ.
Có phải đây chính là câu hỏi mà Heine Istari đã nhận được hay không? Vậy còn Hishiri Adashino thì sao?
Và lúc này,
"...Nếu không trả lời được, thì sẽ bị xé xác."
Với một tiếng thở dài, sư phụ tôi nói nhỏ.
"Aladiah."
Con quái vật bỗng căng thẳng. Thấy phản ứng của sinh vật, sư phụ tôi hít một hơi trước khi nhặt chiếc đèn lồng dưới chân mình. Mở ra cánh cửa của chiếc đèn lồng, ngay cho một điếu xì-gà vào ngọn lửa bên trong.
"Đây đơn thuần chỉ là một trò chơi của Geryon Ashborn thôi. Liệu ông ta có định trao di sản cho người nào đó chỉ vì trả lời được câu hỏi hay không chứ? Mà, tôi có thể đánh cược là không đấy."
Rít một hơi xì-gà, thầy tiếp tục.
"Lâu Đài Biệt Cư Adra. Adra là viết tắt của thiên thần sa ngã Adramelec. Tôi cũng từng nghĩ tới Adrasteia, một vị nữ thần trong thần thoại Hy Lạp, nhưng vì bà ta không có truyền thuyết nào liên quan đến Thiên Sứ nên đã loại trừ nó đầu tiên."
"Ư..."
Luvia nhướng mày.
Tất nhiên, cô cũng đã cân nhắc điều tương tự. Trước khi cô cố gắng đoạt lấy quyền điều khiển xưởng phép, cô đã tìm thấy công thức cơ bản được viết bằng tên của nhiều thiên thần sa ngã. Đương nhiên, Adramelec là một trong những cái tên được sử dụng trong công thức đó.
"Nhưng một thiên thần sa ngã thì không thể dùng làm câu trả lời. Khi cái tên được hỏi là một Thiên Sứ, thì cần phải trả nó về với Thiên Sứ bằng cách nào đó mới được."
Có vẻ chán nản, sư phụ tôi vung vẩy điếu xì-gà của mình vào khoảng trống trước mặt thầy.
"Khi đã đề cập đến Schemhamphoras thì phương pháp này là hiển nhiên rồi. Vốn dĩ Schemhamphoras là một sự sắp xếp ba chữ cái lấy từ Kinh Thánh rồi tái cấu trúc nó thành tên Thiên Sứ. Mihael, 'Tên Thiên Sứ' của tôi được tạo ra từ cụm MIH. Michael của cô Luviagelita được tạo ra từ cụm MIK. À, vì chúng vốn là tiếng Hebrew nên việc hoán chuyển không nằm ở những chữ cái thuần túy, mà chú trọng vào cách phát âm nhỉ. Vì lý do đó mà ch lại trở thành K đấy."
Sư phụ tôi dùng điếu xì-gà của mình viết ra các chữ cái Latin.
M.
I.
H.
Sau đó, thầy viết ra tên đầy đủ, Mihael.
Tái dựng.
Ngược lại với Notarikon, phép chơi chữ trong Shemhamphorae.
Ví dụ với từ 'amen', và tái tạo lại thành cụm từ Adonai Melech Ne'eman.
"Giờ thì, trong trường hợp Adramelec, nó sẽ là ADR, ADM, ADL. Nếu như thay đổi thứ tự này và chuyển phát âm giống như lúc nãy... thì Thiên Sứ thích ứng với Schemhamphoras sẽ là ALD, tức Aladiah. Đấy, chỉ đơn thuần tựa như trò chơi xếp hình dành cho trẻ con vậy."
Sư phụ tôi buông một tiếng thở dài nhỏ.
Bây giờ khi thầy đã nói ra, nó chẳng qua chỉ là một mật mã. Dù nó là một kỹ năng quan trọng trong ma thuật, nó vẫn đứng khá xa bên ngoài ma thuật. Chẳng có gì ngạc nhiên khi sư phụ tôi lại nói rằng nó không khác gì một trò chơi mà Geryon Ashborn làm ra.
"À, nhân đây tôi xin nói về thông điệp ở trên cái bệ... 'Thiên Sứ hóa thành con thú. Nó chăm chú nhìn bầu trời phương Tây, và nuốt lấy mặt trời' có lẽ là để khiến mọi người càng chắc chắn rằng nó liên quan đến mười hai cung Hoàng Đạo. Nếu bảo là tử tế, thì quả có tử tế thật. Thế nhưng với câu hỏi tầm thường thế này, thì một pháp sư sẽ không thực hiện nó một cách nghiêm túc. Nó chẳng là gì hơn một trò bịp nhằm đánh lạc hướng chúng ta mà thôi."
"Phải... hẳn là vậy đấy nhỉ."
Đằng sau lưng con thú vang đến một tiếng nói xác nhận.
Một giọng nói mà tôi biết, mà cũng như không biết.
Nó trái ngược với những gì đã xảy ra với Orlocke. Tuy giọng nói đúng là của Tokitou Jiroubou Seigen, cách nói năng lại không giống anh ta.
"Ngươi..."
Sư phụ tôi lên tiếng.
Đáp lại, anh ta gật đầu. Anh xé toạc lớp áo Yamabushi ở bên vai phải của mình một cách thô bạo, để lộ ra Khắc Ấn Ma Thuật đang phát sáng lờ mờ trên bắp tay vạm vỡ không thể ngờ. Nó có hình dạng của hai đồ hình riêng biệt, khi đồ hình này vừa hết thì được tiếp nối với đồ hình kia.
"...Tôi là Granid Ashborn."
Seigen... không, Granid bật cười. Cùng lúc đó, con thú kêu lên.
Tiếng hống đó, với sức mạnh vô hiệu hóa Khắc Ấn Ma Thuật của những người khác, hạ gục chúng tôi một lần nữa.
Tiếng hống của con quái vật ập đến như một làn sóng xung kích, thổi bay những pháp sư trúng phải nó.
Nhưng người có vẻ bị ảnh hưởng nhiều nhất chính là người đã gây ra sóng xung kích này, là bản thân Granid.
"Là 'bài ca' Thiên Sứ à? Một đòn trực diện của nó có tác dụng với cả những người không mang Khắc Ấn Ma Thuật nhỉ."
Sư phụ tôi nói, gạt mái tóc của mình ra khỏi tầm mắt.
"Kỳ lạ là lần này không có ai bị bất tỉnh cả."
Sư phụ tôi đập một tay lên bức tường gần đó của pháo đài, tạo ra một tiếng động trầm vang dội. Tiếng động này vang một cách bất bình thường, lan tỏa khắp đêm tối chung quanh lâu đài.
"...Đây hẳn là một loại âm thoa nào đó. Hay nên nói là một bộ khuếch đại nhỉ? Tôi cho rằng 'bài ca' của con quái vật đó sẽ vang vọng tới bất cứ chỗ nào trong lâu đài này. Không, chính bởi mục đích đó mà lâu đài này đã được tái dựng lại. Nhằm vận dụng 'bài ca' của anh một cách hiệu quả nhất. Chính vì thế, nếu ở trong Lâu Đài Biệt Cư này thì hẳn anh sẽ có thể chiến thắng hầu hết các pháp sư. Bởi vì thông thường, pháp sư càng ưu tú thì mức độ phụ thuộc vào Khắc Ấn Ma Thuật lại càng cao mà."
Ma thuật dựa vào âm thanh, chỉ có hiệu lực trong lâu đài, nơi mà nó có thể khuếch đại, nhân rộng, trầm bổng hơn nữa nhờ bí thuật của Ashborn.
Nghĩ lại thì, đã có một gợi ý.
Hội trường lớn vang vọng âm thanh một cách kỳ quái.
Sư phụ đã cau mày trước những tiếng bước chân.
Và có lẽ Heine đã chết cũng nhận ra sự dị thường đó.
"Việc áp dụng thuật thức của dòng họ Luviagelita và gây ra cản trở cho thuật thức đó theo một cách cực kỳ hạn chế. 'Bài ca' của con quái vật đó đã không còn khả năng phát huy hiệu suất khả thi của nó lên từng cá thể được nữa."
"Hừm. Thật lòng thì ta thấy lạnh cả gan đấy."
Cậu bé, giờ là Orlocke, vừa nói vừa vuốt cằm.
Phản ứng của con thú rất nhanh.
Ngậm lấy Granid trong miệng, nó nhảy lên đỉnh tháp.
"Bỏ chạy à...?!"
Khi sư phụ tôi nhìn bọn họ khuất dạng, những pháp sư đằng sau thầy nói.
"Ê, vì cái 'bài ca' đầu tiên và chất xúc tác cho vòng tròn ma pháp lúc nãy mà giờ tôi sạch túi cả rồi. Cho dù có lật ngược người tôi lại thì cũng còn cái gì rơi ra nữa đâu."
"Nếu như duy trì thuật thức cản trở, tôi cũng không thể giúp gì được cả."
Flue và Luvia đều tuyên bố họ không còn khả năng chiến đấu.
"Phải, xin lỗi vì đã đòi hỏi quá đáng. Hai người cứ nghỉ ngơi đi."
Nói xong, sư phụ quay sang tôi.
"Đã tập hợp rồi chứ?"
"Hi hi hi hi hi, chà, có lẽ cũng tàm tạm đủ đấy!"
Câu trả lời đến từ tay phải của tôi.
"Nhờ em đấy, Gray."
"...Vâng..."
Tôi nhảy lên.
Với một bước nhảy, tôi phóng lên trên cao vài mét, đạp lên bức tường pháo đài để theo đuổi con thú.
Có lẽ bởi vì cú nhảy đó đã cho thấy một sức mạnh thậm chí còn hơn cả hiệu quả có được từ phép cường hóa, tôi có thể thoáng nghe được tiếng nói của Luvia bên dưới khi tôi phi thân đi.
"...Cô gái ấy cũng là Homunculus, một sinh mạng nhân tạo à?"
Đó là một nhận xét hợp lý. Một homunculus có thể thực hiện những kỹ năng như thế này một cách dễ dàng. Nghe đồn, các homunculus của gia tộc Einzbern nổi tiếng còn bộc lộ những sức mạnh có thể so sánh với Huyễn Tưởng Chủng.
"Không. Em ấy là con người thôi."
Sư phụ tôi trả lời. Làm sao tôi có thể nghe thấy được những gì họ nói một cách rõ ràng, dù đang ở khoảng cách rất xa?
"Nhưng trong những vụ việc như thế này thì có lẽ nó là một chuyên gia đấy."
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, sự khác biệt giữa Trời và Đất đã mất đi ý nghĩa của nó.
Bật nhảy trên bức tường của lâu đài, con thú và tôi chạm trán liên tục trong một thế giới nghiêng 90 độ. Những âm thanh trầm đục vang lên vô số lần khi chúng tôi va chạm nhau. Bị mất đà khi va chạm nhau rất nhiều lần, chúng tôi đạp lên tường một lần nữa và nhảy lên đỉnh tháp nhọn của lâu đài.
Ngay cả ở đó cũng có một Thiên Sứ.
Dũng cảm giơ cao thanh kiếm, nó trông giống như bức tượng ở nơi mà chúng tôi tìm thấy Hishiri bị xiên lên.
Một lần nữa, con quái thú hống lên.
Nếu ma thuật trong Lâu Đài Biệt Cư dựa vào âm thanh, thì có lẽ nên mô tả tiếng hống của nó là như một sóng âm chứa đầy ma lực.
Một làn sóng âm thanh không thể nghe thấy được đối với con người. Ngay cả khi chứa đầy năng lượng ma thuật, nó vẫn là một sự tồn tại không hề được biết đến đối với con người bình thường. Bằng cách thay đổi ma lực và bước sóng của âm thanh, nó có thể chuyển đổi từ loại sóng vô hiệu hóa Khắc Ấn Ma Thuật thành một đạo lực hắc ám tiêu diệt pháp sư đối địch.
Nếu là vậy,
"...Add!"
"Được rồi!"
Tôi tự hỏi, điều đó trông ra sao đối với con thú, khi lưỡi dao của tôi chặn đứng đòn tấn công của nó ngay giữa không trung?
Trong khi Add bắt đầu biến hình, giờ thì cái lồng chứa ông đã mở to hơn nữa. Với ánh sáng mờ ảo như ma trơi, hình dạng của chúng thay đổi đáng kể.
Một hình dạng mà ai cũng nhận ra, hình dạng của một công cụ dùng để gặt hái.
Một hình dạng của thứ dùng để thu thập linh hồn.
Lưỡi hái của Tử Thần.
"Ha ha ha ha ha, sảng khoái quá đi mất! Thật là một đêm tuyệt vời! Ta có thể ăn thỏa thích rồi!"
Chẻ đôi làn sóng ma lực, cái miệng khắc trên lưỡi hái cười dữ dội.
Trên bầu trời đêm, mặt trăng khá tròn. Bên dưới, lưỡi dao có hình dạng liềm trăng của Add thật là đẹp, hình ảnh của nó khi chém những đợt sóng vô hình đang cháy bỏng trong tim tôi.
Một tiếng nói mà con người không thể nghe được.
Một bài ca của Thiên Sứ.
Một bài ca của quái thú.
"...Ngươi là cái gì?"
Granid hỏi.
"Ngươi là cái thứ gì vậy hả?"
"...Tôi chỉ là Gray, vùng xám mà thôi."
Và tôi trả lời.
"Granid Ashborn, tôi đề nghị anh hãy đầu hàng đi."
"Không phải. Không phải mà."
Đột nhiên, giọng nói trước đó của anh trở lại.
"...Seigen-san?"
"Gray-san. Tôi là Seigen. Là Tokitou Jiroubou Seigen mà. Mặc dù rõ ràng là Seigen... Nhưng trái tim tôi không chịu dừng lại. Cho dù thế nào, cho dù thế nào tôi cũng muốn giết tất cả mọi người ở đó, tôi muốn bóc tách mọi người ra từng mảnh."
Vẫn bị giữ giữa hai hàm răng của con thú, Seigen ôm lấy đầu mình.
Khuôn mặt của anh trông như chia ra thành nhiều phần. Vui vẻ, giận dữ, đau khổ, khao khát, hận thù. Mặc dù chúng được cho là năm loại cảm xúc chiếm ngự trong tâm của một con người, nhưng đây trông như cả năm thứ đều đã được khâu lại với nhau thành một biểu cảm. Diễn tả bằng một từ thì, nó là hỗn loạn. Giống như mọi cảm xúc khả dĩ đang chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát anh ta.
...À, ra là thế.
Seigen không hề bị chiếm đoạt nhân cách.
Mà ngược lại, hơn tám mươi hoặc chín mươi phần trăm chủ đạo vẫn là chính Seigen.
Ví dụ, hãy xem nó giống như nước trong một ống nghiệm. Bản thân ống nghiệm là 'Tokitou Jiroubou Seigen', chỉ cần cho một vài giọt phẩm màu vào hòa lẫn. Một khi chất hóa học đó đã hoàn toàn thay đổi bản chất cốt lõi của anh, sự tồn tại của 'Seigen' vẫn còn lại rất nhiều.
Có thể gọi những giọt chất hóa học đó bằng bất cứ từ gì. Gọi nó đơn giản là một động lực, hoặc 'whydunnit.' Dù là gì, sự tha hóa xuất phát từ một pháp sư đã chết từ lâu vẫn còn tiếp tục hoạt động.
Nó khiến tôi cảm thấy buồn nôn.
Có thể nói, về cơ bản thì-
"Cho tôi xin lỗi."
Thậm chí với nước mắt tuôn rơi trên mặt, Seigen vẫn nói. Nước mắt ấy nhuốm một màu đỏ đặc trưng. Đây là lần đầu tiên tôi thấy có người khóc ra máu.
"Tôi thực sự quý mến Heine-san. Giá như người ấy không nhận ra thì đã tốt rồi. Giá như anh ta không tìm thấy con thú trước tiên thì đã tốt rồi. Giá như ngay từ đầu anh ta đừng đến gần xưởng phép thì đã tốt rồi. ...AA, không được. Tôi chẳng thể nào phớt lờ một Khắc Ấn Ma Thuật đẹp đến như vậy được. Tôi muốn nó đến không sao chịu nổi. Tôi đói đến không sao chịu nổi. Tôi khát đến không sao chịu nổi. Không sao chịu nổi, Gray-san ạ."
Không, trong khi vẫn là Seigen, thì quả nhiên đó đã không còn là Seigen nữa.
Mà là một pháp sư khác, pha trộn giữa cái vật chứa và nội dung mang tên gọi Tokitou Jiroubou Seigen - phần mềm và phần cứng - với thứ virus được gọi tên là Granid Ashborn.
Một ai đó mà thậm chí đã không còn là Granid Ashborn nữa rồi.
Và cái người "ai đó" hét lên.
"Lâu Đài Biệt Cư Adra! Mở cổng!"
Cổng pháo đài bật mở. Không hề nhìn thấy chúng, nhưng tôi có thể biết chắc những gì đang tuôn ra từ bên trong nó.
Và toàn bộ cơ thể tôi bắt đầu run lên.
Đột nhiên, cánh cổng pháo đài bật mở ngay trước mặt những pháp sư vẫn còn dưới mặt đất. Từ hành lang bên trong, và từ những bức tượng trong khu tiền viên, thứ gì đó vô hình đang tuôn ra.
Không, vì là pháp sư, những người tụ tập ở đây có thể thấy chúng.
Linh hồn.
Tuy nhiên, đây là thứ khác với linh hồn như thông thường mọi người vẫn nghĩ. Hay có lẽ nói đúng hơn, đó là thứ năng lượng chỉ còn sót lại như một sự lưu giữ những hình mẫu nhân cách xa xưa. Trong Đạo Giáo của Trung Quốc có một nhận thức phổ biến phân biệt rõ ràng giữa "hồn" duy trì tinh thần và "phách" duy trì thể xác, và thứ bám giữ vào đại địa được cho là "phách".
Linh hồn trong trường hợp này chắc chắn là phần "phách".
"A. Thiên Sứ còn có ý nghĩa thế này nữa sao?"
Lord El-Melloi II lẩm bẩm.
Các pháp sư nhớ đến cảm giác luôn bị những Thiên Sứ theo dõi kể từ khi họ đến Lâu Đài Biệt Cư này.
Nếu như đó lại đúng là sự thật.
Chủ nhân của lâu đài, Phục Nguyên Sư, quả thật đã đưa nhiều pháp sư đến đây. Trong số đó, có bao nhiêu người đã được sửa chữa khắc ấn, và bao nhiêu người đã bị thu hoạch để làm nguyên liệu thô? Có những thông tin nói rằng nhiều người đã nhờ cậy đến dịch vụ của Ashborn, nhưng quá trình tiến hành đã gặp phải thất bại. Nhưng hơn nữa, liệu có cần đến nguyên một bàn tay để đếm số lần thành công của ông ta?
Dù thế nào, mảnh đất mà lâu đài này được xây dựng đã uống máu và linh hồn của vô số pháp sư.
Vậy, nếu như lần lượt từng Thiên Sứ đó đều là những linh hồn thì sao?
Trước khi tới Lâu Đài Biệt Cư Adra, Lord El-Melloi II đã nói. ...Rằng Thiên Sứ trong ma thuật hiện đại, nói cho cùng chỉ là cái tên được đặt cho những thứ ma lực mơ hồ. Và Lâu Đài Biệt Cư gia chế linh hồn bằng cách gán cho chúng khái niệm "Thiên Sứ", rồi dùng chúng làm nguồn động lực vận hành xưởng phép.
Nói tóm lại, Thiên Sứ cũng có cùng số lượng với những bia mộ.
Trước sự tấn công của những linh hồn đầy thù hận, một tiếng thì thầm được truyền đi trong không khí.
- "
Perform a dance ."
Một câu thần chú.
Như thể chỉ huy một dàn nhạc, Orlocke vẫy một ngón tay trong không khí. Khi ông làm vậy, một cơn bão từ những con bướm ảo lấp đầy bóng tối, và bắt đầu đánh lạc hướng những linh hồn đang tấn công.
"Vốn dĩ, điều khiển những thứ nằm ở ranh giới mong manh giữa chắc chắn và không chắc chắn là bản chất của ma thuật bướm Papilio Magia, cho nên..."
"...Không, ông đã giúp tôi đấy."
Lord El-Melloi II nói, hơi cúi đầu.
Trong khi vật dẫn và năng lượng của Flue đã cạn và Luvia bận duy trì ma thuật của riêng cô, người duy nhất bảo vệ cho họ là ông pháp sư già - ừ thì, bây giờ là pháp sư trẻ.
Khi cuộc hỗn loạn đó được ngăn chặn, việc còn lại...
"...Gray."
Nhìn lên ngọn tháp canh, Lord El-Melloi II thầm gọi tên của người trợ thủ của mình.
Con thú hống lên lần thứ ba.
Lần này Add không thể chặn nó lại, và tôi có thể cảm thấy Các Mạch Ma Thuật trong cơ thể mình đang bị đoản mạch. Cả tay lẫn chân đều hoàn toàn không thể cử động. Cử động trong khi mặc bộ đồ làm bằng chì còn dễ hơn thế này. Khi các linh hồn vẫn tiếp tục xông ra ngoài lâu đài, tôi có thể cảm thấy tâm trí của tôi bắt đầu rạn nứt.
"...Ha ha ha!"
Seigen cười.
Anh đã nhận ra có điều gì đó không ổn.
"Gray-san, cô xuất thân từ nghĩa địa phải không? Vậy mà chả lẽ cô lại sợ linh hồn sao?"
Tôi thậm chí không thể trả lời.
Tôi sợ đến nỗi có thể nghe thấy tiếng răng của mình đang đập vào nhau.
Hậu quả này chỉ là do tôi nhận thấy sự hiện diện của những linh hồn. Cảm giác này giống như vào lần đầu tiên tôi đến Lâu Đài Biệt Cư. Chỉ cần cảm thấy sự hiện diện của chúng, cơ thể của tôi sẽ bắt đầu chìm trong sợ hãi, chân tôi sẽ trở nên bủn rủn, và tôi sẽ không thể cử động thoải mái dù chỉ một ngón tay. Như thể ruột gan của tôi bị lộn ngược, mồ hôi khó chịu tiết ra khắp người tôi.
Đáng sợ.
Đáng sợ không chịu nổi.
Đáng sợ, đáng sợ đến không sao ngừng cơn buồn nôn lại được.
"Ha ha, thật là thứ đồ thất bại chẳng ra gì! Một người canh nghĩa địa lại sợ ma và thậm chí không nhớ nổi một lời cầu nguyện cho ra hồn sao!? Cứ như thể cô giống hệt tôi ấy nhỉ!"
Giọng nói của Seigen và Granid bắt đầu lẫn lộn với nhau khi họ chế nhạo tôi.
Tôi là một trò hề. Điều đó đúng chính xác. Tôi là trò hề, hoàn toàn thiếu sự chắc chắn, và thảm hại hết thuốc chữa.
Vì thế.
Giống như một trận tuyết lở, những linh hồn của Lâu Đài Biệt Cư bao vây lấy tôi, đập lên tôi từ mọi hướng.
Quan sát diễn biến của trận chiến, Luvia ngước nhìn Gray với ánh mắt sừng cộ.
"Cô gái đó đang làm gì vậy chứ...!?"
"Cứ mặc kệ đi."
Dù đang duy trì bùa chú của mình, Luvia rút ra một viên ngọc để cố chen vào cuộc chiến. Trước khi cô kịp làm thế, Lord El-Melloi II giữ cô lại.
Anh nói ra cái tên của một nghĩa địa nào đó.
"Vậy điều đó thì...?"
Đó là cái tên quen thuộc đối với Luvia. Đó là một trong những nghĩa trang có truyền thống lâu đời nhất, có một không hai ở nước Anh.
"Vốn dĩ con bé đã là người chuyên nghiệp trong việc đối phó Linh Thể rồi. Thực sự thì tôi đến viếng thăm nghĩa trang của nó cũng là vì kỳ vọng vào điều đó mà. ...Nhưng trong trường hợp của con bé thì sự tình có hơi khác một chút."
"Sự tình ư?"
"Nó sợ linh hồn."
Trước cái nhíu mày của Luvia, anh trả lời mạch lạc. Câu trả lời rất đơn giản, rất thẳng thắn, đến mức khiến cho điều đó càng thêm khó tin.
"...Có chuyện như vậy sao? Chẳng phải cô ta sinh ra ở nghĩa trang à?"
"Có phải ai sinh ra là pháp sư cũng yêu thích ma thuật đâu nào?"
Đối với câu hỏi đó, Luvia không nói được lời nào.
"Nếu chỉ nói riêng về tố chất, thì ngay cả trong số những người gác mộ của nghĩa trang ấy, nó cũng xuất chúng hơn người. Thế nhưng chính vì cái tố chất vượt trội đó mà cơ thể con bé nắm bắt được quá nhiều bản chất của những sự tồn tại gọi là linh hồn. Con người ta không thể cứ thế mà tiếp nhận những thứ đó của người khác mãi, kể cả của người sống đi nữa."
Đến cuối câu, lời nói của anh bắt đầu ngập ngừng.
Ngập ngừng vì hình dung, chỉ trong một khoảnh khắc, rằng điều đó ra sao. Khả năng thấu hiểu bản chất thật sự của người mà ta đã gặp cũng đủ để xem là một sự nguyền rủa - mà hơn thế nữa, sẽ ra sao nếu khả năng đó chỉ áp dụng với những người đã chết?
Ngay cả pháp sư cũng cần phải hết sức thận trọng khi giao tiếp với linh hồn của người chết. Nếu nó là một thể phách đã bị tách khỏi thể hồn, thì tất cả lòng tham dục của nó sẽ được bộc phát hết ra ngoài. Gray được mấy tuổi vào cái lần đầu tiên bị buộc phải chứng kiến điều ấy?
"Nếu thế, ông là sư phụ của cô ta cơ mà?! Chẳng phải ông có nghĩa vụ phải bảo vệ đệ tử của mình sao!"
"Sai rồi."
Lord El-Melloi II nói một cách chắc chắn.
"...Tới lúc để dính líu vào, tôi sẽ nói với cô."
Một đoàn linh hồn sôi sục áp đảo tôi.
Đáng sợ.
Đáng sợ không chịu nổi.
...Đám Thiên Sứ bao bọc bò khắp da tôi. Từ khắp mọi lỗ như tai, miệng và mũi, chúng đang sắp trườn vào trong thân thể tôi.
Đáng sợ đáng sợ đáng sợ, thậm chí không thở nổi.
Đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ, ngừng lại đi.
Đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ đáng sợ.
...Buông xuôi nỗ lực giành lấy cơ thể thật sự của tôi, những linh hồn trở về hình dạng Thiên Sứ, và bắt đầu nắm tóc tôi, nhe răng như muốn ăn thịt tôi.
"AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA!"
Chúng đáng sợ, chúng đáng ghê tởm, chúng đáng nguyền rủa, chúng gớm guốc, chúng ô uế, chúng đói, chúng khát, chúng sắc nhọn, chúng nhiều vô kể, chúng làm tôi phát điên, chúng đau đớn, chúng thét lên như sắp nôn ra, chúng không được chôn cất, chúng bị khai quật, chúng đáng thương, chúng bị bỏ mặc trong khi đáng lẽ phải mai táng, chúng thống khổ, chúng đáng lẽ phải bị hủy diệt...
Một âm thanh bí ẩn vang đến bên tai tôi.
Âm thanh của kim loại va vào nhau, lớn đến nỗi khiến người ta muốn bịt tai lại.
Đó là tiếng của những linh hồn đang bị ăn thịt. Cái miệng khắc trên lưỡi hái của tôi hốt một mẻ hết sạch những linh hồn vây quanh tôi.
"I hi hi hi hi hi! Ngon! Thứ này ngon thật! Đã bao lâu rồi tôi mới được chiêu đãi đấy! Quả nhiên là đúng như cái gã El-Melloi ấy đã nói nhỉ!"
Tiếng của Add - đồng đội của tôi nghe thật xa xăm.
Điều duy nhất tôi có thể thấy là một biển rộng toàn là linh hồn.
Phải rồi, đúng thế.
Đây là thứ mang dáng vẻ người chết hơn cả người chết.
Đây là thứ mang dáng vẻ người sống hơn cả người sống.
Một quang cảnh mà bản thân tôi đã nhìn thấy nhiều, rất nhiều lần ở quê hương mình. Những thứ bất hợp lý, trái lẽ thường, phi tự nhiên, không sống cũng chẳng chết. Bên tai tôi, những lời mà tôi đã nghe nhiều lần đang được gợi lại.
---"Nhà ngươi phải hủy diệt thứ đó. Thứ đó. Thứ đó. Chỉ thứ đó mà thôi."
"Exactly."
Đôi môi của tôi cử động.
Ý chí của tôi, và một ý chí khác không phải của tôi. Chức năng đó, bản chất thật sự của tôi, thức tỉnh một lần nữa. Ngay cả lưỡi hái đang nuốt lấy các linh hồn cũng không hơn một viên đá lót đường để đến được cái đích đó.
"......Vậy thì không thể không hủy diệt nó rồi."
Với một tiếng thịch, đầu gối tôi khum lại, và khung cảnh xung quanh tôi biến mất.
Với sức mạnh bộc phát hoàn toàn, cô gái biến mất.
Nhảy từ ngọn tháp sang mái thượng của pháo đài mà không mất đến một giây. Nếu tốc độ đó không gọi là 'biến mất' thì còn có thể gọi nó là gì?
Cô gái đang nhảy múa.
Lưỡi hái Tử Thần đang múa lượn.
Cùng với âm thanh từ lưỡi dao của cô, những Thiên Sứ bị chém thành từng mảnh.
Tất cả những kẻ đứng trước mặt cô đều tan tành như thủy tinh.
Cô gái đang nhảy múa.
Tiến đến chỗ con thú, lưỡi hái của cô cắt ngang qua cơ thể của nó.
Với tốc độ di chuyển của họ, sự khác biệt về kích thước của họ đã không còn ý nghĩa gì nữa. Giống như hai ngôi sao băng lao vào nhau hết lần này đến lần kia, cả hai vẽ ra một Dải Möbius[36] giữa trời đêm. Mỗi khi họ va chạm nhau, chấn động giống như một trận động đất ập lên lâu đài. Những phát nổ vang khắp nơi như thể họ là hai chiếc phi cơ trong một cuộc không chiến.
"...Cô ta là cái gì vậy chứ?"
Flue hạ giọng rên rỉ.
Những pháp sư trên mặt đất đã chuyển sự chú ý của họ ra khỏi những linh hồn đang đổ ra từ lâu đài. Như muốn bảo vệ chủ nhân của chúng, tất cả bọn chúng đang lao vào tấn công Gray. Mặc dù vậy, dòng thác linh hồn trước mắt cô trông như sương giá lúc ban mai.
"Bởi vậy nên tôi đã nói rồi đấy. Nó là một chuyên gia mà."
"Chỉ có vậy thì đâu thể giải thích được chuyện thế kia chứ!"
Trước tiếng quát trả của Luvia, Lord El-Melloi II tỏ vẻ chua chát.
"Còn có một lý do nữa, nhưng cho dù là pháp sư thì cũng chưa chắc đã tin vào chuyện đó."
"Ông đang tán gẫu cái gì đấy?"
Luvia bước tới chỗ anh. Dù chỉ mới biết cô có vài ngày ngắn ngủi, nhưng anh hiểu rằng vào lúc này, cô sẽ không chịu thôi cho đến khi có được câu trả lời.
Vì vậy, anh đành nói ra.
"...thur."
"Hả?"
Luvia phản ứng lại ngay.
Cô đã nghe điều mà anh nói rất rõ ràng, nhưng những lời đó dường như chẳng có liên quan gì đến tình hình hiện tại.
Tử Thần chiến đấu với quái vật.
Một câu này đã diễn tả một cách hoàn hảo cảnh tượng đang diễn ra phía trên lâu đài.
Sau nhiều cú va chạm, cô gái chặn móng vuốt của con thú, kìm giữ nó trên mái của pháo đài. Bằng một giọng nhẹ nhàng, cô nói.
"Thứ đã giết chết Heine Istari là những cái móng vuốt đó à?"
Con quái thú hống lên.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi giữa tiếng hống, ngọn lửa bỗng vươn lên.
"A Tỳ La Hồng Khiếm Tô Bà Ha[37]!"
Shugendou.
Đó là ma thuật của Seigen.
Không thể biết được liệu nhân cách đằng sau nó là Seigen hay Granid, nhưng ít ra, anh vẫn có thể sử dụng ma thuật của Seigen. Chừng nào anh còn có Lâu Đài Biệt Cư tiếp viện cho mình, một trận chiến dài sẽ đưa lợi thế ngả về phía anh.
Vậy,
Cô gái thì thầm.
Tuôn ra những từ đã được quyết định từ trước.
"Gray [Tối Tăm]... Rave [Hưng Phấn]... Crave [Mong Ước]... Deprave [Trụy Lạc]..."
Đột nhiên, có gì đó thay đổi.
Hoặc có lẽ nên nói là, có gì đó đã bị thổi bay đi.
Cũng giống như những linh hồn trước đó, toàn bộ mana xung quanh khu vực này bị hút cạn. Bị đẩy vào một không gian không có ma lực, quái vật của Ashborn gào thét.
"Chờ chút đã. Vừa rồi ông nói gì cơ?"
"Tôi đã bảo, đó là Vua Arthur. Anh Linh mà trước kia từng được triệu hồi ở Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ tư, và đã cùng với Master của mình giết chết sư phụ tôi - thầy Kayneth."
Giọng nói của anh vừa căng thẳng lại vừa cay đắng.
"Ở nghĩa trang nơi quê nhà con bé, có một ngôi mộ của Vua Arthur. Cô chưa từng nghe nói sao? À mà, chỗ Glastonbury nổi tiếng hơn, và những địa điểm như thế còn có cả ở Brittany với Cornwall nữa."
Môi anh nhếch lên với vẻ mỉa mai, như hàm ý rằng anh thật sự cũng không muốn nói ra điều đó.
"Khuôn mặt của con bé giống hệt với Vua Arthur... tức Saber, vị Anh Linh của kiếm mà tôi đã thấy."
"Grave [Ghi Khắc]... me [Lên Ta]..."
Tôi cúi đầu thì thầm. Ý thức của chính tôi đang tan biến.
Nó thật sự đã biến mất từ cách đây rất lâu. Vì thế nên giọng nói này không phải của tôi. Nó thuộc về một cái tôi khác - một người nằm ẩn sâu trong trái tim tôi.
Một con quái vật khác, được tạo ra bởi những người ở quê hương tôi.
"Grave [Đào Mồ]... for you [Cho Ngươi]..."
Hỡi thần bí cổ đại, hãy chết đi.
Hỡi thần bí ngọt ngào, hãy tan biến.
"Nhân cách ngụy tạo, đình chỉ. Đột phá giá trị quy định về tỷ lệ thu thập ma lực. Bắt đầu giải trừ hạn định giai đoạn hai."
Giọng nói của Add, nghe máy móc một cách khó tin, vang lên trong bóng tối. Giống như một cánh cửa bật mở khi phong ấn ma thuật của nó được giải khai, Thần Bí trong tay tôi được mở ra.
Lưỡi hái ăn linh hồn và loại ma lực giống thế, đang trao một sức mạnh phi nhân cho người sử dụng nó, không phải là hình dạng thật sự của Add. Không, nhân cách giả, tức là Add, vốn dĩ chỉ tồn tại như một phong ấn tạm thời để ngăn chặn sự suy tàn của Thần Bí trong vũ khí này.
Một phong ấn... đối với cây thương này.
Có thể nói, tôi cũng như vậy.
Con quái vật hống lên lần nữa.
Tôi không còn đếm được nó đã hống bao nhiêu lần như thế.
Nhưng điều đó không còn quan trọng nữa. Dưới tác dụng vào bức tường hội tụ ma lực đang lan ra trong không gian xung quanh tôi, đòn tấn công tự động tiêu tan.
Có một lý luận cơ bản rằng một Thần Bí sẽ tiêu diệt một Thần Bí khác với sức mạnh lớn hơn. Bất kể là ma thuật uyên thâm nào được sử dụng để tạo ra quái vật của Ashborn, nó không thể nào chống đỡ nổi cây thương này.
"Ngươi..." "Gray-san" "Thứ vũ khí đó" "Thứ vũ khí của cô..."
Tiếng nói chồng chéo lên nhau của Seigen và Granid nghe thật xa xăm.
"Thánh Thương, nhổ neo."
Lưỡi hái Tử Thần đã phân giải hoàn toàn.
Theo cách mà dường như không thể thực hiện về mặt vật lý, chiếc lưỡi hái xoắn lại và thay đổi hình dạng, biến thành hình dạng thật sự của nó là một cây thương.
Không, như vậy không đúng lắm. Ma lực cao quý của anh hùng phát ra từ nó chứng tỏ rằng đây không chỉ là một cây thương. Nó thuộc một cấp độ hoàn toàn khác. Nó giống như một tòa tháp đứng tại nơi tận cùng của thế giới, một Thần Bí được kết tinh, chứng minh cho rất nhiều truyền thuyết, thần thoại rằng chúng là sự thật.
Đó là kết thúc của câu truyện.
Cây thương thần thánh mà xấu số, tô điểm cho kết cục của truyền thuyết về Vua Arthur.
Tên thật của thứ vũ khí này nhẹ nhàng rời khỏi đôi môi của tôi.
- "
Rhongo--- "
Thời gian đã đến.
Thánh thương oằn lại và rung lên.
Không thể chống lại cuộn xoáy ma lực, Lâu Đài Biệt Cư như rùng mình sợ hãi. Mặc dù nó được xây dựng chỉ để phản ứng với các sóng âm thanh, nhưng lượng ma lực cực lớn này đã buộc nó phải phát sinh phản ứng. Sự hiện thân này đã hút toàn bộ mana từ môi trường xung quanh giống như hiện thân của thiên tai.
Mười Ba Cấm Chế vẫn chưa được giải khai, nên đây vẫn chỉ là một phần nhỏ lọt ra từ trong toàn bộ sức mạnh của nó. Mặc dù vậy, một phần nhỏ này cũng thuộc cấp độ của Thánh Linh, một thứ mà ma thuật không thể mong sánh bằng.
Lượng ma lực đó, tích tụ đến giới hạn tuyệt đối, có thể cảm nhận được bởi một sức nóng cực lớn. Cảm giác như đang thò tay vào núi lửa.
Con thú của Ashborn không còn kịp nữa.
Không thể nào kịp. Hiện ra trong tay tôi là một Bảo Khí chỉ xếp sau
- "
---myniad !!!"
Ai thậm chí có thể nhìn được ánh sáng xoắn ốc đó?
Mặc dù đang là ban đêm, nhưng như thể mặt trời bỗng nhiên mọc lên - như thể một mảnh của mặt trời rơi xuống ngay chỗ họ, một vòng xoáy đỏ thẫm sáng rực rỡ. Năng lượng ma thuật, và cả hơi nước trong không khí cũng bị đốt nóng và sôi lên, ánh chớp đến từ Thời Đại Thần Thánh đang phi tới như một tên bạo chúa trên lưng ngựa.
Ánh sáng xuyên thủng ngọn tháp bên trên, ánh sáng xuyên qua mái vòm và tường thành của Lâu Đài Biệt Cư, chỉ dừng lại khi cắt sâu vào sườn đồi bên ngoài lâu đài.
Cả Seigen lẫn con quái vật của Ashborn đều biến mất trong ánh sáng đó.
Bằng một cao trào bạo lực, trận chiến đã đi đến kết thúc.
"...Vua Arthur..."
Luvia lẩm bẩm, chết lặng trước cảnh này.
Ngược lại, Lord El-Melloi II gãi đầu như thể toàn bộ thử thách này chỉ là một mối phiền toái.
"Mà, xem chừng nó có thể là con cháu họ hàng xa của cô ta đấy. Sự tình như vậy nên mới có mộ của Vua Arthur trong nghĩa trang đó mà."
"Vậy thì, vừa rồi là Bảo Khí của Anh Linh...?"
Đến lúc đó, câu nói của Luvia lạc đi.
Các Thần Bí được truyền lại từ Thời Đại Thần Thánh xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Thần Bí nổi tiếng nhất trong số đó là
Mặc dù biết rằng nên đi tìm học trò của mình, nhưng thay vì vậy, Lord El-Melloi II quay sang phía tàn tích của lâu đài do cô phá hủy. Thấy mặt đất bị khoét sâu bởi vụ nổ, anh nhướn lông mày lên.
"Đây là..."
Ở giữa miệng hố, nơi vẫn còn đang bốc hơi, một lỗ nhỏ lộ ra trong đống đổ nát. Có vẻ như Bảo Khí đó đưa đến sự tàn phá quá lớn, nó đã làm lộ ra một căn phòng bí mật dưới lòng đất.
"Ông Orlocke."
"Phải. ...Ta rất biết ơn cậu đấy, vị Lord trẻ tuổi ạ."
Với sự thúc giục của Lord El-Melloi II, hai người họ bắt đầu đi về phía căn phòng bí mật vừa được phát hiện.
"Chờ đã, cái gì vậy chứ! Phớt lờ người ta như thế, ông vẫn còn điều bí mật sao!?"
"Có rất nhiều ấy chứ."
Với một cái cớ nửa vời, Lord El-Melloi II rút ra một điếu xì-gà trong khi thận trọng tiến vào miệng hố.
Có lẽ nhờ vào bản chất của Bảo Khí, hoặc có thể là do thuộc tính phòng ngự của chính lâu đài, sức nóng từ đòn tấn công đã giảm đi phần lớn. Hai người có thể tiến tới trung tâm của miệng hố mà không sợ giày của họ bị tan chảy.
Đột nhiên, một thân hình di chuyển tới, đứng chắn ở lối vào cái lỗ bí mật đó.
"...Granid Ashborn..."
"AAAaaAAA...!"
Với một cánh tay bị đứt, quần áo và tóc tai bị cháy thành tro, không có gì lạ khi dây thanh quản của anh cũng không hoạt động. Nhưng thậm chí so với anh, sinh vật bên cạnh anh còn tệ hơn nhiều. Con thú hẳn là đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để đánh bật Seigen ra khỏi đường bắn của Rhongomyniad, nhưng chính vì làm vậy mà nó đã mất đi một nửa cơ thể. Cho dù nó là một sinh vật được tạo ra từ ma lực, không còn kết cục nào khác có thể xảy ra khi hứng chịu một đạo ma lực lớn hơn nhiều so với bản thân nó. Chuyện nó vẫn còn cử động được đã là ngoài khả năng có thể xảy ra, kể cả trong thế giới pháp sư.
Điều làm nên phép màu đó là...
"Mẹ!"
Granid gào lên.
Những lời của Orlocke lúc trước tự động hiện về trong tâm trí của Lord El-Melloi II.
---"Mặc dù vốn là một pháp sư, nhưng ông ấy rất yêu thương bảo bọc đứa con của mình. Ta cũng phải vô cùng khen ngợi đấy. Cái chết của bà vợ ngay sau khi hạ sinh đứa con trai đó có lẽ cũng là một lý do quan trọng..."
Con thú há miệng... trước mặt Orlocke Caesarmund.
...Gay rồi!
Lord El-Melloi II hành động theo bản năng.
Ở nơi thấp hơn mặt đất, họ nằm ngoài phạm vi mà ma thuật của Luvia có tác dụng. Hơn nữa, con thú đang giãy chết không còn gì để mất nữa. Họ không cách nào thoát được một khi Khắc Ấn Ma Thuật của họ bị vô hiệu hóa.
Thế là-
Con quái thú hống lên.
"Lord?!"
Orlocke hét lên.
Che chở cho Pháp Sư Của Bướm, đòn tấn công đánh thẳng vào Lord El-Melloi II.
Ngay khi mở mắt ra, cậu hiểu rằng chỉ có một mình cậu.
Thế giới bị bao phủ trong sương mù. Cho dù cậu có cố gắng nhìn thì cũng chẳng thấy được gì ngoại trừ sương mù đó.
"Ra thế, đây là hiệu quả của 'bài ca' đó à?"
Chàng trai trẻ nói, xoa hai vai của mình.
Một "bài ca" tấn công trực tiếp vào Khắc Ấn Ma Thuật. Vì cậu không có Khắc Ấn Ma Thuật, nên hình như nó tấn công vào tâm trí của cậu.
Thầm nhủ rằng nếu là bên trong tinh thần thì dù không xử lý cái vai đau chắc cũng chẳng sao, cậu nhìn xung quanh một lần nữa. Không giống như bóng tối mà cậu và Luvia đã bị mắc kẹt trước đó, đây chỉ đơn giản là một màn sương, che mờ mọi thứ.
Chắc hẳn sương mù này là hình dạng thật sự của lời nguyền của bài ca.
"Hẳn là anh đã luôn nỗ lực rồi nhỉ."
Ý nghĩ đột nhiên xâm nhập trực tiếp vào đầu cậu. Trước khi nhận ra, cậu có thể thấy một cái bóng ẩn nấp bên trong sương mù.
"Tuy nhiên, chắc chắn rằng anh đã biết rồi. Cho dù có phấn đấu đến đâu, anh cũng chẳng thể nào bắt kịp."
Cái bóng nói.
Cái bóng cười.
Chàng trai ấn một tay lên ngực.
Đối với cậu, đó là phần dễ bị tổn thương nhất trong trái tim cậu. Phần mà cậu đã chấp nhận, phần mà cậu đã từ bỏ mà chưa thú nhận với một người.
"Rốt cuộc, điều anh đang làm chỉ là xác nhận con đường mà một thiên tài sẽ bước lên mà thôi. Cho dù có thể làm tài năng của người khác nảy mầm bằng những tri thức đó, nhưng bản thân anh lại mãi mãi chỉ là hạng hai. Chỉ có xung quanh anh là tỏa sáng. Cái ngày mà anh được tắm mình trong ánh sáng sân khấu sẽ chẳng bao giờ đến đâu."
Giọng nói đó như thể được lấy ra từ trong suy nghĩ của chính cậu.
Một lời nguyền.
Đó là một lời nguyền theo nghĩa đích thực nhất. Nó lẻn vào suy nghĩ của một người và tác động lên người đó từ trong lõi. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất, sơ khai nhất của những lời nguyền. Không chỉ có pháp sư sử dụng nó mà còn có các đoàn thể thông thường, đàn ông và phụ nữ trong những sinh hoạt hàng ngày - lời nguyền mạnh mẽ nhất có thể có. Nếu hàng chục ngàn, hàng triệu người đã phải nếm mùi cay đắng và kết thúc cuộc đời của họ thì sao? Có bao nhiêu triều đại mà lời nguyền đó đã khiến người ta gục ngã?
Giống như nó khiến cho một Khắc Ấn Ma Thuật tàn lụi từ trong ra ngoài…
——Nó là một lời nguyền đâm sâu vào nhân cách thật sự của cậu.
Rút cuộc, cậu cũng mở miệng đáp lại.
"...Hiểu lầm rồi."
"?"
Lời nguyền giao động.
Không phải vì đó là một phản ứng mà đáng lẽ không thể có.
Mà bởi vì cậu bé đã thay đổi thành thứ gì đó phản ánh phần chân thật hơn trong bản chất của cậu.
"Tôi đã nhận đủ vinh dự rồi mà."
Trong một khoảng cách, cậu nghe thấy âm thanh của thứ gì đó nứt ra.
Ở nơi nào đó trong thế giới này, cậu cảm giác như có thể nghe thấy bài ca đang trói buộc cậu. Đó là điều cậu sẽ không bao giờ có thể chạm đến, không bao giờ có thể đụng được vào, nhưng nó vẫn gây cho cậu ấn tượng về một bài ca cực kì đẹp đẽ, cực kỳ ngắn ngủi.
"Niềm vinh dự đó là thứ mà tôi đã được ứng trước."
Chàng trai thì thầm.
Hình dáng của Lord El-Melloi II đã quay lại về thời trẻ hơn. Hình dáng của anh vào mười năm về trước, vào lúc diễn ra Cuộc Chiến Chén Thánh Lần Thứ Tư. Tóc anh ngắn hơn nhiều, khuôn mặt luôn gắt gỏng của anh tươi trẻ hơn nhiều. Với hình dạng đó, anh quay sang nói với màn sương.
"Bởi vậy mà tôi cần phải trở thành một nhân vật cho phù hợp với niềm vinh dự đó. Thứ tự đã bị đảo ngược, nhưng tôi phải chứng minh rằng mắt nhìn sáng suốt của ngài là không hề lầm lẫn."
Ngay cả bây giờ, anh vẫn có thể nghe thấy lời nói của người đó.
Để đáp lại, anh đã nói rằng:
——"Ngài chính là đức vua của tôi. Tôi sẽ phục vụ ngài. Tôi sẽ tận sức vì ngài. Xin ngài hãy vui lòng dẫn dắt tôi. Tôi mong muốn được ngài cho tôi thấy cùng một giấc mơ đó."
Thật là những lời ích kỷ, Thật là những lời non dại.
Có lần, anh đã muốn được chết bên cạnh ngài. Người thống trị vĩ đại nhất mà thế giới từng có. Người đã chinh phục được một nửa thế giới trong cuộc đời của mình, người đã đến gần nhất với sự độc bá toàn cầu trong lịch sử nhân loại. Có lần, anh đã muốn được chết bên cạnh ngài, giống như rất nhiều thuộc hạ khác của ngài đã được cho phép làm thế.
Trước ước muốn đó, nhà vua của anh đã cười thản nhiên.
Thay vì ban cho ước muốn đó, ngài đã giao cho anh một nhiệm vụ mới.
"...'Sống'. Đó là mệnh lệnh duy nhất mà ngài đã ban cho tôi. "
Trong trái tim của chàng trai ấy là một ánh sáng vàng rực. Lời tuyên thệ đó sẽ không bao giờ bị lãng quên, ánh sáng đó sẽ không bao giờ bị phai mờ.
"Quan sát đến phút cuối cùng, sống sót, và kể lại câu truyện về ngài. Thật là ích kỷ, hoàn toàn bất hợp lý. Vì ngài mà tôi đã bị đẩy đến gần kề cái chết, nhưng vào phút cuối cùng, ngài lại chất việc đó lên tôi. Cậu có biết điều đó đã khiến tôi gặp bao nhiêu rắc rối không? Tôi có thể phàn nàn nguyên cả đêm mà vẫn không hết những điều muốn nói về tên ngốc đó."
Lord El-Melloi II hiện tại nói.
Như thể nói lời tạm biệt với cậu bé tên là Waver Velvet, anh đã trở lại hình dáng thật của mình và ngẩng cao đầu tự hào.
"Tôi biết rõ những điều mình muốn làm và cả những điều mình có thể làm."
Tất nhiên anh đang mâu thuẫn với bản thân mình. Ngay cả khi anh chấp nhận con người thật của mình, mỗi khi đối diện với những người có tài năng thật sự, cảm xúc ghen tị của anh lại cháy lên. Heine Istari, Luviagelita Edelfelt... những tài năng trẻ này đã vượt qua anh rất dễ dàng. Giấc mơ được bay cùng với họ đã ăn sâu vào trong tâm hồn anh - nhưng, nó chỉ là một giấc mơ.
Cứ để cho nó là một giấc mơ cũng được. Đó là những gì anh nghĩ đến.
Cứ để cho nó là một giấc mơ cũng được. Đó là những gì anh có thể nghĩ được.
"Thế nào? Hẳn là một cuộc đời hạnh phúc đấy chứ. Đó không phải điều được chỉ dẫn bởi thứ như ngươi đâu."
Anh gằn giọng với một sức mạnh khác thường.
"...À mà. Vì tốn gần mười năm mới đi đến được kết luận này, nên tôi cũng chẳng thể lớn miệng cho lắm đâu nhỉ."
Anh nói thêm với một nụ cười chua chát.
Sương mù tan vỡ như một tấm gương.
Anh chầm chậm mở mắt ra.
"Bài ca" đã kết thúc. Thành thực thì, anh cũng không ngại lắng nghe nó lâu hơn một chút.
Dưới chân anh là một khúc tro tàn từ một trong những xì-gà của anh. Mùi hương bay ra từ khúc tàn đó là cái mỏ neo níu giữ anh về với thực tại. Trong thời gian khi anh và Luvia bị rơi vào bẫy, chính những xì-gà này đã giúp anh ta tạo ra kết giới bảo vệ họ nhanh chóng như vậy. Điếu xì-gà của anh ta thật ra là một loại Lễ Khí dùng một lần, mỗi điều đều chứa một ma thuật đơn giản. Ngay cả Gray, đệ tử thân cận nhất của anh, cũng không biết gì về điều đó.
"...Hô. Không ngờ cậu trở lại dễ dàng thật nhỉ. Ta đã nghĩ chắc chắn cậu sẽ bị kẹt trong tâm trí của chính mình suốt đời cơ đấy. Quả đúng là cậu đã che chở cho ta, vậy nên ta thấy áy náy lắm."
Orlocke trẻ đón tiếp sự trở lại của anh với một nụ cười dịu dàng. Dường như anh chỉ bất tỉnh trong vài giây.
Nhưng chỉ vài giây đó cũng đủ lâu để cho một bi kịch xảy ra.
Cơ thể của Orlocke đang cúi gập lại.
Tokitou Jiroubou Seigen đã đâm ông bằng toàn bộ sức lực trong người hắn, với đôi tay nắm chặt một cái Kim Cương Chử [Tokko/Dokko] sắc nhọn. Có nguồn gốc từ Ấn Độ, nó là một pháp cụ được dùng trong các nghi lễ Phật giáo, nhưng như để gợi nhớ đến một công dụng xưa hơn của nó, hiện giờ nó đã cắm sâu vào bụng của Orlocke.
"Ồ, cậu khỏi cần làm chuyện dư thừa đâu. ...Tên này, ý thức của nó đã ngừng lại rồi."
Ánh mắt ông lướt sang bên.
Có vẻ như tiếng hống cuối cùng, một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, cũng đủ để giúp cho con quái vật của Ashborn giải thoát khỏi đau khổ.
Anh đã quá muộn. Đối diện với thực tế đó, khuôn mặt của Lord El-Melloi II nhăn lại thành một biểu cảm cay đắng.
"Vừa rồi, tôi đã biết thêm một điều whydunnit duy nhất nữa."
"Hô."
"Người đã giết Geryon Ashborn chính là ông đấy nhỉ."
"...Cái gì vậy chứ!"
Vừa mới đến hiện trường, Luvia kêu lên với đôi mắt mở to.
Ngược lại, cậu bé cười khô khốc. Khuôn mặt cậu đang bắt đầu già đi, từ từ quay trở lại bộ dạng của Orlocke già. Là một homunculus, một khi nguồn ma lực bổ sung cho cơ thể của ông khô cạn, dường như nó bắt đầu lão hóa luôn một lần.
"Granid Ashborn rõ ràng là bị ám ảnh về ông. Cái cách mà nghi thức lần này được tổ chức, một nửa là nhằm mục đích đe dọa ông. Tôi không thể hình dung ra một điều gì khác có thể trở thành động cơ để cậu ta làm đến mức đó."
"Trả thù."
Orlocke trả lời.
"...Mà, chắc hẳn ông ta cũng đã dự đoán trước được việc bản thân sẽ bị giết. Chính vì vậy mà ông ta mới cấy Khắc Ấn Ma Thuật của Granid vào tên Yamabushi này. Có lẽ còn có những đối tượng cấy ghép khác nữa, nhưng ta cho rằng ở tên này, nó đã đạt được đến sự nảy mầm."
Ép lên bụng của mình, Orlocke nói với một giọng ngập ngừng.
Hết sức nhẹ nhàng, ông đặt thi thể của Seigen xuống đất. Sau khi giúp ông ta đặt thi thể xuống, Lord El-Melloi II lại nói.
"Tại sao ông lại giết Geryon?"
"Đó là một câu chuyện xưa lắm rồi. Tại sao cậu không suy đoán thử xem sao? Cậu là người thích mấy câu đố mà, phải không?"
Chỉ ngừng một lúc, anh liền trả lời.
"Có phải vì ông mới là cha của Granid Ashborn?"
"...Ư!"
Luvia sững người. Quay sang nhìn vẻ bối rối của cô, Orlocke lại nói.
"Ta chẳng thể giấu cậu được. Vị Lord trẻ tuổi ạ."
Orlocke đã gần như hoàn toàn trở lại trạng thái già nua của mình, ông ngừng lại để thở dài trước khi buông một tiếng cười khô khốc.
Rút cuộc là ông đang cười ai?
Ông đang cười về chuyện gì?
"Cho dù có khác biệt về tuổi tác, nhưng vợ ông ấy là một người bạn cũ của ta. Khi ta bước đầu làm quen với Geryon cũng là lúc bọn ta gặp lại nhau lần đầu tiên sau mười năm. ...Phải, thật không đúng với tuổi tác của mình, nhưng ta đã phải lòng bà ấy. Ta đã day dứt về làn da trắng ấy."
Vẻ mặt của ông giờ đây làm liên tưởng đến một hộp sọ rỗng, Orlocke đào bới lại quá khứ của chính mình.
"Nghĩ lại thì, chắc hẳn là Geryon có biết. Cả việc người vợ than vãn về chuyện không thể có con, lẫn việc ta lợi dụng điều đó, hẳn là ông ta đã biết rõ tất cả khi chúng ta quen nhau."
"Vậy Granid Ashborn... có phải là?"
"Lỗi lầm chỉ xảy ra một lần duy nhất."
Ông già trả lời.
"Sau đấy, ta được nghe bà vợ đã mắc một căn bệnh chết người và qua đời ngay sau khi hạ sinh đứa con trai. Ngày ấy, ta không hề biết đứa bé là con của ai. Suốt thời gian cùng nhau nghiên cứu, ta chẳng bao giờ ngủ nổi vì nỗi bất an về việc liệu Khắc Ấn Ma Thuật của Ashborn có bén rễ vào đứa con trai hay không. Khư khư, rốt cuộc trong lúc ta đang đau khổ phiền muộn thì nó cũng lại gục ngã bởi căn bệnh chết người ấy."
Như Orlocke đã kể với họ trước đó, ngay cả những loại thuốc bí truyền có được từ một tu sĩ Druid cũng không giúp được gì.
"Một thời gian ngắn trôi qua sau đám tang của Granid, ông ta bảo ta rằng 'Cám ơn ông rất nhiều, để tôi cho ông xem một thứ hay ho nhé'. Khà khà khà khà, cho xem cái gì thì đã chẳng cần ta phải nói nữa rồi nhỉ?"
Ánh mắt của Orlocke lại nhìn sang thân xác vô hồn của con quái vật của Ashborn. Nghĩ đến từ mà Granid dùng để gọi nó lúc nãy, hiển nhiên đó chính là danh tính thật sự của nó.
Một con người biến thành con thú.
Người vợ đột nhiên chết sau khi sinh.
"Ông ta hỏi ta 'thế nào' một cách đầy vui sướng. ...'Cuối cùng tôi cũng khắc phục được căn bệnh chết người của cô ấy. Cô ấy là một phụ nữ hiếm muộn không thể mang thai, nhưng lại có cái tài để làm một Khiển Sứ Linh. Tôi sẽ biến thân thể cô ấy thành một nhà kho dự trữ Khắc Ấn Ma Thuật. Nhờ có cả sự cảm hóa bằng Ma Thuật Bướm Papilio Magia của ông, mà cô ấy có thể bảo tồn mọi Khắc Ấn Ma Thuật. Tôi muốn chúc phúc cho cả ông nữa đấy.'"
Lord El-Melloi II lắng nghe trong im lặng.
Ngay cả Luvia cũng không thể làm gì khác ngoài im lặng lắng nghe lời thú nhận của ông pháp sư già.
"...Nghĩ lại thì, có lẽ ông ta đã nghiêm túc thật. Có lẽ cả tình yêu với người vợ lẫn tình yêu với đứa con trai của ông ta, tất cả đều là nghiêm túc. Và như một kết quả của điều đó, có lẽ việc biến vợ mình thành con quái vật chính là sự sáng tạo tự nhiên của ông ta với tư cách một pháp sư."
"Ông Orlocke."
"Ta chẳng thể chịu đựng cho nổi. Mặc dù cũng nghĩ rằng có lẽ ông ta đã đúng với tư cách một pháp sư."
Một pháp sư dành cả đời mình cho ma thuật.
Hễ đã bước một chân tiến vào sâu trong ma thuật đó, bất kỳ sự hy sinh nào cũng đều xác đáng. Mặc dù Orlocke là người đã tiến vào sâu nhất trong bóng tối đó, ông đã quên mất điều này vào khoảnh khắc đó, và không nhớ ra nó kể cả sau khi giết Geryon, kể cả sau khi rời khỏi hiện trường gây án.
"Thế rồi ông nhận được thiệp mời này?"
"Ừ. Khà khà khà, ta đã nghĩ, rồi chuyện gì sẽ xảy ra đây, nhưng chẳng bao giờ ngờ được ông ta lại đã cắt vụn đứa con trai quá cố ra làm Khắc Ấn Ma Thuật."
Gió thổi.
Thổi qua lối đi vào căn phòng bí mật dưới lòng đất nay đã bị tiết lộ, tiếng gió nghe như tiếng kêu khóc tang thương.
Luvia nói, đối diện với Lord El-Melloi II.
"...Ông đã được nghe tới đâu về cái sự tình này rồi vậy?"
"Chỉ là có người muốn cứu Lâu Đài Biệt Cư này... thế thôi."
"Chỉ thế thôi à? Ông là một kẻ lãng mạn à? Hay là một tên ngốc vậy hả?"
Trước cơn tức tối nho nhỏ của Luvia, Orlocke lại cười.
Kể từ khi bắt đầu sự việc tại Lâu Đài Biệt Cư thì đây là âm thanh ngây thơ chân thật nhất mà họ được nghe từ ông.
Orlocke cúi người về phía trước.
"Đứa con của ta."
Ông nói, vuốt ve khuôn mặt của Seigen.
Sau đó, ông bắt đầu bước đi. Lê chân qua bùn đất, thấm đầy máu chảy ra từ vết thương trên bụng, vài mét này hẳn phải có cảm giác như một cuộc hành trình kéo dài nhiều tháng đối với ông. Tuy khuôn mặt của ông cho thấy cuộc hành trình này đau đớn ra sao, ông vẫn mỉm cười như một cậu bé cuối cùng cũng đã tìm thấy chú chim xanh hạnh phúc của mình.
Ông vươn tay chạm vào con quái vật của Ashborn đã tắc thở từ lâu.
"Tình yêu của ta."
Ôm lấy con thú đã từng là người yêu của mình, ông nói.
- "
Perform a dance ."
Vô số những con bướm vàng xuất hiện, bao lấy xung quanh họ.
Một bùa phép nhằm trả lại cho người đàn bà hình dạng ban đầu của mình. Con thú của Ashborn, trông giống như một sinh vật lai giữa sói và nhện, trở về hình dạng ban đầu là một người phụ nữ xinh đẹp. Mặc dù một nửa cơ thể bị mất của bà ta không được khôi phục lại, hình ảnh của họ ôm nhau dưới ánh trăng thật sự rất đẹp.
Ông pháp sư già rút cuộc cũng trút hơi thở cuối cùng.
Không bao lâu sau, có tiếng gọi từ phía sau lưng họ.
"...Luvia-sama!"
"...Ê, anh đang làm gì đấy hả? Đệ tử của anh đây này!"
Không biết gì về chuyện vừa xảy ra ở đó, Clown và Flue cất tiếng gọi trong khi mang theo Gray đã bất tỉnh.
Chương Cuối[]
Nheo mắt trong ánh nắng mùa thu, tôi viếng thăm Tháp Đồng Hồ lần đầu tiên sau một khoảng thời gian dài.
Khác với tháp đồng hồ thật sự ở trung tâm Luân Đôn, nó nằm giữa một khung cảnh các tòa nhà bằng gạch và đá đan xen nhau, gợi cho tôi nhớ đến quê hương của mình. Quang cảnh thành phố này là sự pha trộn kỳ lạ giữa kiến trúc đương đại và trung cổ, một số tòa nhà có niên đại tính từ Thế Kỷ 12. Với hơn 40 khu nội trú cho học viên và hơn 100 khu lớp học dùng cho nhiều mục đích khác nhau, thậm chí việc sinh hoạt hàng ngày của những cư dân nơi đây cũng nằm trong trường học. Trung tâm của nơi này, ngôi trường đầu tiên được xây dựng chung với các tòa nhà của thành phố, được các pháp sư ở khắp mọi nơi đặt cho cái tên tương xứng là Tháp Đồng Hồ.
Kể cả bên trong thành phố, phong cảnh cũng thay đổi đáng kể tùy theo nơi mà ban ngành của trường đó trực thuộc. Khoa Lý Luận Ma Thuật Hiện Đại, dưới sự giám sát của sư phụ tôi, nằm gần một con đường có tên là Slur. Khoảng mười năm về trước, khu vực này chẳng khác gì khu láng giềng tình cờ nằm gần Tháp Đồng Hồ, nhưng khi các học viên của Khoa Ma Thuật Hiện Đại lũ lượt đổ về khu vực này, thì Hiệp Hội Pháp Sư rút cuộc đã phải nhượng bộ trước nhu cầu cần có một không gian của riêng họ và mua lại toàn bộ khu vực này.
Tất nhiên, mọi chi phí cho nỗ lực đó đều được tính cho Khoa Lý Luận Ma Thuật Hiện Đại, nên mặc dù một khu láng giếng mới do Hiệp Hội Pháp Sư mua lại nghe có vẻ hay ho về mặt danh nghĩa, kết quả cuối cùng lại là một khung cảnh gồm các tòa nhà trông thật rẻ tiền. Ờ, ít nhất thì tôi cũng thích cái vẻ ngoài rẻ tiền đó.
Dù gì đi nữa, khi tôi bước vào tòa nhà chính của Khoa Lý Luận Ma Thuật Hiện Đại,
...Tôi lập tức nấp kín.
Chẳng mất đến mười giây sau khi tôi đến, những tiếng bước chân huỳnh huỵch vang lên trong sảnh trước mặt tôi.
"Gray-ta----------n!"
Người đang vẫy một tay là một cậu thanh niên điển trai với mái tóc xoăn vàng óng.
"A, đó là Gray-tan mà! Gray-tan đi đâu rồi!? My Fair Lady đáng yêu của tôi ở đâu rồi kìa?! Chắc chắn là ở quanh lối vào có mùi hương của Gray-tan sau hai tuần lễ cơ mà nhỉ!"
Nhìn ngó xung quanh, mũi cậu ta giật giật giống như một con chó đang đánh hơi. Như thể nhiêu đó là chưa đủ, cậu ta bắt đầu cho cái mũi lướt dọc theo các bức tường và cây cột trong phòng, vừa đi vừa đánh hơi.
Số lượng bạn học của cậu ta phàn nàn về những cá tính lập dị gắn liền với vẻ ngoài ưa nhìn của cậu ta không hề ít. Thật ra, nhờ vào ngoại hình và huyết thống của cậu, độ nổi tiếng của cậu đối với đám con gái lại khá cao, bất chấp cả hành vi kỳ quặc của cậu. Hiển nhiên còn có không ít các bậc phụ huynh mớm ý cho con trẻ của họ rằng hãy mau mau "câu lấy" cậu ta nữa. Xét theo nhiều góc độ, cậu ta là pháp sư phá hoại sự bình yên của nhiều pháp sư khác.
Trong số các học trò của sư phụ tôi, có một cậu tự hào khi được gọi là một "tên ngốc tài năng", không nghi ngờ gì, cậu ta là người mà tôi thấy khó đối phó nhất.
Flat Escardos.
Nửa năm về sau, sẽ có một bộ đôi náo nhiệt khác, một trong hai người đó không phải ai khác mà chính là Luvia, ra mắt lần đầu trong một khóa học về Khoáng Thạch do sư phụ tôi đứng lớp. Nhưng vào thời điểm hiện tại, tôi không hề biết điều đó sẽ xảy ra.
Cuối cùng, cậu-cún cũng chịu ngừng săn tìm, và sau khi xìu vai thất vọng, cậu rời khỏi lối đi.
Ngay lúc tôi vừa mới thở phào nhẹ nhõm...
"...Ta có thể hiểu rõ cái cảm giác khi ẩn nấp."
Một tiếng nói vang lên từ trong cái bóng của cây cột, khiến tôi nhảy dựng lên.
"...A, sư phụ."
"Ta rất mừng khi thấy em đã hồi phục."
"I hi hi hi hi! Tôi không nghĩ cô lại dùng đến cả "cây thương" đâu, nhưng dù sao cũng đã được ăn no căng đẫy bụng mà nhỉ!"
Từ vị trí gần bên tay phải của tôi, Add lại cười nữa. Khi ông nói hết câu, tôi tiếp tục.
"...Tạm đủ ạ. Và em cũng đã được nghe Reines-san kể cho biết về những sự kiện sau đó rồi ạ."
"Em vất vả rồi. ...Mà, quả thực là chẳng thể phục hồi Khắc Ấn Ma Thuật của cô ta bằng phương pháp đó được nhỉ."
Tôi cũng đã được cho biết về chuyện đó nữa.
Đúng như Orlocke đã nhìn thấu, sư phụ tham gia vào chuyện tài sản thừa kế ở Lâu Đài Biệt Cư là bởi vì Khắc Ấn Ma Thuật của nhà El-Melloi đã bị hư hại. Khắc Ấn Ma Thuật hiện tại chỉ được có hai mươi phần trăm, và Khắc Ấn Ma Thuật đó đã được cấy ghép lên Reines El-Melloi Archisorte, vốn là người thừa kế từ trước tới giờ.
Tôi không rõ trước kia giữa sư phụ và Reines-san đã có những trao đổi như thế nào.
Nhưng xem ra khế ước lúc đó là "khôi phục Khắc Ấn Ma Thuật đã bị hư hại của nhà El-Melloi" và "chi trả toàn bộ số tiền mà nhà El-Melloi đã mắc nợ". Điều thứ hai còn đỡ, chứ nghĩ đến điều thứ nhất thì nó tương đương với bất khả thi. Chẳng biết với phương pháp phổ biến là cho một Điều Hưởng Sư tu sửa nó thì liệu cả một đời người có đủ không nữa.
Và hơn nữa, dường như sư phụ tôi không có ý muốn phản đối lại các điều khoản trong hợp đồng đó.
"Tạm thời thì ta cũng có chút hy vọng. ...Dù rằng ta nghi ngờ liệu có thể trông cậy vào nó không đây."
Sư phụ tôi thêm vào một vẻ mặt khó chịu. Chắc hẳn thầy đang nói đến người đã bám sát bên thầy trong suốt quá trình điều tra Lâu Đài Biệt Cư. Nếu được, chắc hẳn thầy muốn tránh dựa vào cô ấy hết sức có thể.
"...Thật là một người vụng về nhỉ."
"Em nói gì cơ?"
"...Không ạ."
Vì mải suy nghĩ một cái cớ gì đó, tôi cứng đờ ra.
Sư phụ tôi cũng vậy.
Nhưng thầy là người đầu tiên khôi phục lại bình thường. Hít một hơi thật sâu, thầy quay sang nói với vị khách mới đến ở hành lang.
"...Cô đã thu hồi cặp mắt kính rồi à?"
"Ồ, anh nhận ra rồi sao? Rằng nó là một món đồ có giá trị ấy?"
"Tại vì rất hiếm khi được trông thấy một cái Sát Ma Nhãn mà."
Khi nói, sư phụ tôi đưa mắt nhìn thẳng vào cô gái đó.
Có phần không tương thích với mặt đá cẩm thạch của tòa nhà, cô ta đang mặc một bộ kimono có ống tay áo dài. Tóc cô dài một cách lạ lùng, đến tận mắt cá chân. Kết hợp với bộ quần áo và mái tóc đó, những phục sức còn lại trên người cô làm liên tưởng đến một con rắn.
Ngẩn người ra, tôi khẽ nói tên cô ta.
"...Adashino Hishiri."
"Ngài Lord chẳng ngạc nhiên cho lắm nhỉ?"
Nhướng gọng kính lên, Hishiri mỉm cười ngọt ngào.
Sư phụ tôi trả lời với giọng bực mình.
"Khoa Pháp Chính không nhất thiết phải mong cầu những điều Thần Bí của ma thuật. Mục đích của các cô chỉ nhằm vào việc ngoan cố duy trì Tháp Đồng Hồ mà thôi... Đã vậy thì, khác với những pháp sư thông thường, các cô sẽ dốc hết sức mình để hướng đến việc 'không phải chết'."
Với một tiếng thở dài bình tĩnh,
"Hình như anh cũng đã dự đoán được phương pháp của tôi thì phải?"
"Tôi cũng nói chuyện với ông Orlocke về việc này rồi. Cả Khoa Pháp Chính lẫn Lâu Đài Biệt Cư đều có rất nhiều xác chết được bảo quản."
Rồi thầy dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa đặt lên gần mắt.
"Xác chết chỉ cần giống cô Adashino ở phần tầm vóc là đủ. Việc móc mất nhãn cầu sẽ gần như đồng nghĩa với việc cả khuôn mặt bị mất. Ngay cả một kẻ tay mơ chỉ cần che mắt đi thì cũng có thể khiến con người ta nhầm lẫn y thành người lạ. Nếu như họ lại còn bị sốc về người chết nữa thì càng tốt hơn. Vì chỉ nhìn thấy cái người chết đó thôi là họ sẽ chẳng nghĩ ngợi xem liệu xác chết có thực sự là Adashino Hishiri hay không."
"Thật là thấu đáo."
Cô cười rạng rỡ.
"Tôi đã lo tráo đổi xác chết thì có hơi đơn giản, nhưng trái lại, nếu là với pháp sư thì nó lại trót lọt mà không bị nghi ngờ nhỉ. Phải, dĩ nhiên đó là nhờ anh đã không nói ra những điều không cần thiết."
Nhìn nụ cười của cô ta, sư phụ tôi im lặng một lúc.
Sau đó, như thể đã phải uốn lưỡi từ trước, thầy nói.
"Anh Seigen đã suýt soát sống sót được, nhưng hiện giờ anh ta đang phải điều trị. Trước hết, vì rất khó để phân biệt được ký ức của Tokitou Jiroubou Seigen với Granid Ashborn, nên cho dù có bóc tách Khắc Ấn Ma Thuật ra thì tình trạng đó của anh ta rồi sẽ còn tiếp diễn. Được phát hiện ở khu trung tâm xưởng phép, Rosalind Istari vẫn chưa hồi phục sau cú sốc bị mất anh trai. Khắc Ấn Ma Thuật của Heine cũng đã được thu hồi, nhưng chính vì thế mà sau này cô bé sẽ bị cuốn vào cuộc tranh đấu quyền thừa kế của nhà Istari."
"Thật đáng thương."
Khuôn mặt của Hishiri biểu lộ một nỗi buồn chân thật khi cô nói về chuyện này. Chân thật, như thể sự thông cảm của cô đối với những thử thách của một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết mà cô đang đọc.
Dường như chẳng thể chê trách cô về lối suy nghĩ này, sư phụ tôi thay đổi chủ đề cuộc trò chuyện.
"Không phải Khoa Pháp Chính đã trợ giúp định kỳ cho nghi thức của Ashborn trong vòng mấy trăm năm nay đấy chứ?"
"Ồ, tại sao nhỉ?"
"Bất kể làm hư hỏng Khắc Ấn Ma Thuật có là một việc tai tiếng đến thế nào, nếu tất cả các pháp sư tập hợp tại nhà Ashborn đều không trở lại, việc phát tán những lời đồn đại là điều không thể ngăn cản. Vì nó vốn là một ngành nghề nhỏ hẹp mà. Để bưng bít những tin đồn như vậy thì sẽ cần đến sự trợ giúp của một tổ chức có tai mắt trên toàn thể Hiệp Hội Pháp Sư. ...Ví dụ như, Khoa Pháp Chính chẳng hạn."
Ý tưởng này nhá lên trong đầu tôi, tôi suýt nữa thốt lên kinh ngạc.
Nụ cười của Hishiri không thay đổi. Với sự dịu dàng yên ả như trăng tròn, nụ cười của Hishiri không hơn một cái mỉm chi khi cô lắng nghe.
"Thêm nữa, các pháp sư tụ tập tại Lâu Đài Biệt Cư Adra lúc đó, ai cũng đều là những nhân tài có thể gây ảnh hưởng đến Tháp Đồng Hồ, và toàn là đối tượng khó kiểm soát của Khoa Pháp Chính. Sự thực là mỗi lần đều như vậy phải không? Nghi thức thu thập vật liệu nhằm tu sửa Khắc Ấn Ma Thuật của Ashborn cũng là một hệ thống nhằm tiễu trừ những pháp sư gây trở ngại của Khoa Pháp Chính."
"Lord El-Melloi II."
Hishiri ngắt lời sư phụ tôi.
"Anh có lấy một chứng cứ nào không vậy?"
"Không hề có."
"Cảm ơn anh về sự hư cấu thú vị đó nhé. Nhưng mà không có chứng cứ thì thật chẳng thích hợp cho một vị thám tử đâu nhỉ."
"Hoàn toàn đúng."
Sư phụ tôi quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ.
Dù nhìn thấu được âm mưu thật sự đứng sau thì cũng chẳng đem lại niềm an ủi cho bất kỳ ai. Mà vốn dĩ niềm an ủi dành cho một pháp sư không thể xuất phát từ bất cứ điều gì ngoài ma thuật. Ngay cả tôi cũng cảm nhận được sự trống trải đau thương đằng sau động lực đó, sự thôi thúc đó.
"Vậy thì, thêm một điều nữa thôi."
Sư phụ tôi giơ một ngón tay.
"'Tên Thiên Sứ' là do cô đặt ra đúng không?"
"Ô."
Hishiri nói, đưa tay che miệng, ý nói rằng cô không hề nghĩ điều đó sẽ bị nhận ra.
"Mặc dù Chơi Chữ [Notarikon] và Chơi Số [Gematria] có thể nói là kỹ thuật đặc trưng của Kabbalah, nhưng yếu tố trò chơi đã đi hơi quá. Nó không thống nhất với đặc tính của Geryon Ashborn mà tôi nghe lỏm được. Người tạo nên một trò đố chữ trẻ con như thế phải là một đối tượng không quan tâm nghĩ ngợi nhiều về ma thuật."
"...Đúng vậy nhỉ. Những pháp sư làm được chuyện như vậy có hạn lắm."
Whydunnit.
Sư phụ tôi từng nói lúc trước rằng phần 'tại sao' là điều duy nhất chúng tôi có thể suy đoán được. Cố hình dung ra ma thuật nào đã làm việc đó, ma thuật nào có thể đã làm việc đó, là một điều bất khả thi. Nhưng bằng cách xem xét các kết quả, ta có thể tìm phần 'tại sao' phù hợp với bản chất đặc thù của một pháp sư.
"Ví dụ như tôi."
Hishiri nói, chỉ tay vào chính mình.
"Và ví dụ như anh."
Cô lại nói, chỉ tay sang sư phụ tôi.
"Làm pháp sư là khiêu vũ với những mánh khóe và những điều thần bí. Mặc dù ai cũng biết rằng không thể chạm đến Căn Nguyên, vậy mà họ vẫn lấy đó làm mục tiêu. Tôi cứ nghĩ chỉ có chúng tôi là tránh xa được khỏi cái màn khiêu vũ ngu xuẩn đó, nhưng mà không phải rồi nhỉ?"
"Cô không lấy nó làm mục tiêu vì cô không có ý chí. Tôi không lấy nó làm mục tiêu vì tôi không có tài năng. Chúng ta khá khác biệt đến mức phát mửa đấy."
"Kết quả là giống nhau còn gì? Tôi không nghĩ anh lại là người đa cảm tới mức nói rằng quá trình mới là điều quan trọng đâu."
Hishiri đưa tay về phía sư phụ tôi.
Kể cả trong một cung điện hoàng gia, dù là nhân dịp gì, người đàn ông nào có thể từ chối lời mời của cô ấy?
"Anh sẽ khiêu vũ cùng tôi chứ?"
"Tôi xin được từ chối. ...Vậy, thất lễ nhé."
Nếu ai có thể làm được điều đó, thì đó hẳn là sư phụ tôi.
Chợt nắm lấy tay tôi, thầy bước qua mặt Hishiri, kéo tôi đi cùng. Khi tôi vấp chân do lực kéo bất ngờ của thầy, Hishiri nói với theo sau chúng tôi.
"Anh vẫn chưa từ bỏ sao?"
"Phải."
Không quay mặt lại nhìn cô, thầy đáp.
"Tôi sẽ gặp lại ông ấy một lần nữa."
Ông ấy.
Theo tất cả những gì mà trước giờ tôi được nghe sư phụ tôi nói, điều này dường như có gì đó đặc biệt. Như thể những ai từng được nghe lời nói của 'ông ấy' một lần thì cả cuộc đời họ có thể ưỡn ngực tự hào.
"Nếu hoàn thành khế ước với Reines, tôi sẽ có thể trở lại làm một pháp sư thuần túy. Và tôi định sẽ một lần nữa tham gia trận chiến đó - Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ năm, với tư cách một pháp sư thuần túy."
Về sau, tôi được biết.
Lời thề đó sẽ không bao giờ được hoàn thành. Lời nguyện cầu mà sư phụ tích tụ suốt mười năm sẽ không đến được với trận chiến ở miền Viễn Đông đó. Trận chiến giữa các Anh Linh mang tên Cuộc Chiến Chén Thánh lần thứ năm sẽ được tổ chức và đón nhận hồi kết của nó tại nơi mà thầy ấy không thể chạm một ngón tay vào.
Thế nhưng điều đó không làm nên nỗi tuyệt vọng...
"...Sư phụ."
Khi chúng tôi đã cách khá xa chỗ của Hishiri, tôi lên tiếng. Tôi lo lắng và sợ hãi, nhưng vẫn cố hết sức giấu đi cảm xúc của mình mà lên tiếng gọi thầy.
"Gì thế?"
"...Em đã quyết định duy nhất một điều này."
Không ngước nhìn lên, tôi khẽ nói với bàn tay đang dìu dắt tôi.
Cuộc sống của tôi chẳng có gì ngoài sự tiếc nuối. Kể từ khi tôi có nhận thức về bản thân... không, kể từ khi tôi sinh ra, tôi đã nghĩ rằng Chúa đã phạm sai lầm nào đó khi tạo ra tôi. Ngay cả bây giờ, cảm giác đó vẫn đang ngày một lớn thêm, và tôi không hề ảo tưởng rằng điều đó sẽ khác đi trong tương lai.
Nhưng dù vậy-
"...Xin hãy đưa em cùng đi tới trận chiến của thầy nhé."
Lần đầu tiên, tôi tin rằng đó là một quyết định mà tôi sẽ không bao giờ hối hận.
Lời Bình[]
Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ gặp lại Waver Velvet trong hoàn cảnh như thế này.
Tính đến bây giờ, tôi khá hài lòng rằng mình được thấy những đoạn ngắn nói về anh ta bằng cái tên Lord El-Melloi II trong "Fate/Strange Fake" và "Fate/Kaleid Liner - Prisma Illya". Thấy anh trở lại sau khi được thăng tiến đến một chức vụ tuyệt vời, trở nên nổi danh đến vậy... đối với tôi, không có điều gì có thể làm cho tôi hạnh phúc hơn thế.
Viễn cảnh thấy một tác giả khác viết về Waver khi anh ta bước chân trên con đường của một pháp sư, chẳng thể làm gì ngoài việc ngồi phía sau để quan sát những sự kiện diễn ra xung quanh anh, đó thật sự là một chuyện không dễ dàng gì đối với tôi. Nhưng cuối cùng, nỗi lo lắng ấy là thừa. Nhân vật xuất hiện mười năm sau đã trưởng thành một cách tuyệt vời, được ban tặng danh hiệu Lord, và là một người hoàn toàn khác hẳn với cậu bé mà tôi đã viết. Một quý ông, người đã mài dũa năng lực phân tích của mình, vừa có sự khôn ngoan giống như sự thông thái của ông lão, trong khi vẫn ẩn tàng niềm trăn trở của tuổi trẻ ở đâu đó trong trái tim mình, anh thật sự là một nhân vật đặc sắc!
Đã 10 năm trôi qua kể từ khi các tác phẩm hình thành từ dòng Fate bắt đầu được phát triển, và ngay cả hiện tại, các tác phẩm mới ra lò và anime chuyển thể vẫn đang tiếp tục được đưa lên kệ bày bán. Điều xảy ra với tôi là, với sự gia tăng lượng người hâm mộ mới của dòng truyện, cuốn sách này có thể là truyện phóng tác (spin-off) đầu tiên mà vài người trong số họ mới bắt đầu được đọc. Do đó, tôi xin được phép đưa ra một lời giải thích vắn tắt về nhân vật chính của cuốn sách này, Lord El-Melloi II, và tiểu sử của anh.
Tác phẩm nguyên gốc của tất cả các truyện này đều dựa trên tiểu thuyết trực quan (visual novel) Fate/Stay Night, ra mắt vào tháng 1 năm 2004 (bản thân thế giới quan này có lịch sử dài hơn, tính từ những tác phẩm như "Mahoutsukai no Yoru", "Kara no Kyoukai" và "Tsukihime", nhưng tôi lược bớt). Và vào tháng 10 của năm tiếp theo, cùng với việc phát hành đĩa CD cho người hâm mộ (fandisk) "Fate/Hollow Ataraxia", tác phẩm bắt đầu một spin-off khác mà rồi trở thành tiền truyện (prequel) của Stay Night: "Fate/Zero". Trong tác phẩm này, nhân vật Waver Velvet, cậu bé mà sau này trở thành Lord El-Melloi II, xuất hiện lần đầu tiên.
Nhân tiện, mặc dù việc phát hành tập đầu tiên của Zero hầu như đã được định sẵn thông qua việc phát hành "Character Material" vào tháng 8 năm 2006, Lord El-Melloi II đã được đưa vào chung với giàn nhân vật của Zero trong cuốn sách ấy, đó mới là lần xuất hiện đầu tiên của anh. Vào lúc đó, các đặc tưng của nhân vật "Giảng Viên Nổi Tiếng của Tháp Đồng Hồ" và "Kẻ Nghiện Chơi Game Nhật Bản" đã được xác định, và bắt đầu được phát triển từ Zero tập 2 và trở đi. Cộng thêm, phần thiết kế nhân vật của Waver cũng được phát triển với dự định tạo ra một phiên bản trẻ tuổi của Lord El-Melloi II nổi tiếng. Phần còn lại chỉ là bổ sung thêm vào tiểu sử phức tạp của "Ngôi Sao Luân Đôn".
Với mở đầu như trên, giờ tôi có thể giải thích làm sao mà Gen Urobuchi xa lạ lại được giao phó việc viết bình luận cho cuốn sách này. Thật ra, tôi là tác giả của Fate/Zero. Tôi là người nuôi dưỡng Waver trẻ. Vì vậy, tôi hy vọng các bạn có thể hiểu được tại sao tôi rất vui mừng khi viết phần lời bình này. Có thể nói, cảm giác này giống như tôi gả cưới đứa con gái yêu dấu của mình, và sau 8 năm dài, con bé trở về nhà cùng với đứa cháu của tôi. Niềm hạnh phúc sâu sắc này đã giúp cho tôi tiếp tục làm một nhà văn trong thời gian dài, và điều đó làm cho tôi nhận thấy rằng mình đã lại may mắn đến mức nào.
Nhân tiện, trong cốt truyện của Fate/Zero không kể gì nhiều về tương lai của Waver ngoài chuyện "cậu ta sống sót". Thực ra, Nasu Kinoko vốn đã đề cập trong "Side Material" của mình rằng cậu sẽ có được một sự nghiệp lớn, trở thành một giảng viên tại Tháp Đồng Hồ và nhận được cái tên El-Melloi. Nhờ anh mà tương lai của Waver trở nên rất tươi sáng. Sự cân nhắc dành cho các nhân vật thuộc sở hữu của một người đã vượt lên trên tôi với tư cách là một nhà văn, nên Waver thật sự là một cậu bé may mắn khi nhận được sự ưu ái từ tác giả nguyên tác thật tử tế.
Cũng trong cuốn sách này, chúng ta được thấy sự xuất hiện của một trong các bông hoa của dòng Fate, Luviagelita Edelfelt, một người đã thực hiện nỗ lực lớn lao mà không ai có thể cười nhạo. Đây cũng là một điểm quan trọng. Tuy không xuất hiện trong visual novel gốc nhưng cô đã được nhắc đến trong nhiều tư liệu bổ sung, thế là cô bắt đầu xuất hiện trong một số tác phẩm sau này. Trong những tác phẩm đó, vai trò của cô rất ấn tượng, mà có thể còn quá nhiều nữa, vì mỗi khi xuất hiện, cô có khuynh hướng góp phần vào các trò gây cười. Trong truyện Lâu Đài Adra này, kế tục góc nhìn của "Mahoutsukai no Yoru", cô đã tạo được ấn tượng rất lớn về vẻ ngoài của một người lạ vô tình, khát máu và không nghe theo luật lệ của bất cứ ai khác ngoài của mình. Giống như một diễn viên hài chuyên nghiệp thực hiện thành công cuộc chuyển đổi thành một diễn viên chính kịch.
Người làm được điều tuyệt vời ấy, Makoto Sanda, đích thật là một người phi thường. Khả năng thực hiện được điều đó trong khi diễn tả một cách hoàn hảo các hoạt động của Lord El-Melloi II chỉ từ những kết cấu cơ bản, đây có thể xem như một tác phẩm bậc thầy. Được viết từ một người kỳ cựu đã sống sót trên thị trường light novel tàn bạo, đặc biệt là sau khi chuyển sang làm việc trong thế giới của Type Moon, tác phẩm này hấp dẫn độc giả của nó bằng sự đáng sợ giống như một lưỡi gươm trần.
Khi được nghe nói rằng bộ truyện Case Files sẽ tiếp tục, tôi không kiềm chế niềm mong chờ đến phần tiếp theo. Các Anh Linh vượt thời gian, và pháp sư theo đuổi Ma Pháp Chân Chính. Đối với nhà văn, thế giới đó giống như một mỏ quặng khổng lồ, và đối với độc giả thì là sự thích thú còn khổng lồ hơn thế với những điều chưa biết. Tự bản thân là một người được trao cho cơ hội khám phá lục địa mới ấy, tôi có thể khẳng định điều này. Bộ truyện của anh Sanda sẽ chỉ có tăng tốc độ từ đây, và nó sẽ tiếp tục lôi cuốn các bạn đọc vào sự thích thú cuồng nhiệt.
Gen Urobuchi
Lời Bạt[]
--- Đây giống như một ngôi sao đối với anh ta.
Hầu hết mọi người có lẽ chỉ xem đấy là sự ngưỡng mộ đơn thuần.
Vươn đến con người hiếm thấy ấy. Đôi khi đi theo họ như một hướng dẫn viên. Đôi khi được tiếp thêm can đảm từ hình ảnh của họ. Đôi khi ghen tị hoặc ao ước, nhưng luôn luôn hướng đến con người ấy, người mà gần như không có mối liên quan nào.
Anh ta không bao giờ nghĩ đến việc tạo ra các ngôi sao cho riêng mình.
Anh không bao giờ nghĩ bản thân mình sẽ trở thành một ngôi sao.
Nhưng.
Nếu anh ta không muốn bỏ cuộc, anh ta có thể làm gì đây?
Là một người đã bị mê hoặc bởi ngôi sao đó hơn bất cứ ai khác, người mong mỏi nó hơn bất cứ ai khác, người hiểu ý nghĩa và vẻ đẹp của nó hơn bất cứ ai khác, anh ta hiểu rõ hơn bất cứ ai khác rằng nó sẽ mãi mãi nằm ngoài tầm tay của mình.
Chắc chắn anh sẽ được nhẹ nhàng hơn nếu cắt đứt sự ràng buộc với nó hoàn toàn.
Nhưng dù biết thế, giả sử anh quyết định dành cả cuộc đời mình để cố gắng tiến gần hơn dù chỉ một chút tới ngôi sao đó?
Anh ta cảm thấy gì, khi nhìn lên bầu trời đêm?
Khoảng bảy năm trước, anh Nasu Kinoko lần đầu tiên đề cập với tôi về sách truyện của Type Moon..
Trên đường quay trở về từ Shinjuku, dưới ánh đèn phía trước Alta, anh ấy vô cùng say sưa khi nói về ý định cho ra mắt nhiều đầu sách như Fate/Zero để mở rộng thế giới Type Moon. Nghe vậy, tôi nói với anh ta rằng tôi thật sự muốn chung tay, nên hãy liên hệ với tôi bất kỳ lúc nào. Và trong khi tôi phát triển các ý tưởng thì nhiều năm đã trôi qua.
Niềm đam mê đó đã được ghi nhận tại Liên Hoan Kỷ Niệm 10 Năm khó quên của Type Moon. Vào giữa sự kiện đẹp rực rỡ đó, sau khi được mời ngồi cạnh anh Kinoko, tôi đã bị một cú sốc khiến mình muốn hét to lên.
Cả tiểu thuyết lẫn anime chuyển thể của Fate/Zero đều xứng đáng là những tác phẩm tuyệt vời. Nhưng dù vậy, khi xem trên màn ảnh lớn cùng với âm thanh lớn, tôi lại lần nữa bị chấn động hoàn toàn bởi xung lực chết người đó.
Tôi muốn được kể câu truyện về anh ta.
Tất nhiên, bạn có lẽ đã biết người mà tôi đang nói đến là ai.
Waver Velvet.
Được biết đến về sau là Lord El-Melloi II.
Sau đó vài ngày, khi tôi hỏi xem có ai định viết một câu truyện về Lord El-Melloi II, tôi ngạc nhiên với số lần không thể quên được của câu: "Không. Còn anh?"
Qua bao quá trình lên xuống của kế hoạch, bất kể phải viết lại cốt truyện bao nhiêu lần, tôi vẫn không hề cảm thấy khổ sở. Đọc đi đọc lại các tác phẩm đã xuất bản và xác định các chi tiết về Tháp Đồng Hồ và nhiều nhân vật khác với sếp là niềm vui khôn tả.
Đặc biệt, khi xem xét về Luviagelita, nhân vật đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm khác mà phần nhiều là phỏng theo nhân vật khác, tôi tra hỏi cặn kẽ anh về mọi thứ từ các bùa phép đến lời thoại của cô vì tôi muốn củng cố lại đặc tính nhân vật của cô. Mỗi lần được tôi hỏi tư vấn, anh ấy còn cho tôi thêm nhiều thông tin mới nữa, và điều khiến tôi buồn phiền là tôi thậm chí không thể đưa vào truyện của mình một nửa lượng thông tin mà anh đã đưa cho tôi.
Giờ thì, phong cách của câu truyện lần này rút cuộc, theo cảm quan chung, là một bí ẩn.
Về chủ đề, tôi sử dụng cả ma thuật trong thế giới thật lẫn thế giới Type Moon.
Ngay cả trong lịch sử, có đủ loại phép thuật đã nhập vào dòng chảy của nó. Văn hoá, chủng tộc, phong tục, đức tin, nghệ thuật, và ngay cả dòng dõi. Nhằm đem đến nhân vật Lord El-Melloi II, tôi đã nhặt nhạnh từ các khía cạnh đó nhiều nhất có thể.
Một người biết về các ngôi sao nhiều hơn bất cứ ai, nhưng lại không bao giờ có thể tiếp cận chúng. Tôi cố gắng miêu tả anh ta như vậy đấy.
Và tôi mong rằng Watson[38] của anh ta, Gray và Add, cũng như các pháp sư khác tại Lâu Đài Biệt Cư, đều có thể giành được sự quan tâm của các bạn.
Ngoài ra, nhiều người chắc đã đoán được điều này từ chữ số "1" được in trên bìa trước, nhưng kế hoạch hiện tại là phát hành mỗi năm một tập. Tôi hy vọng sẽ gặp lại các bạn trong loạt truyện này vào mỗi kỳ Đông.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Kiyomune Miwa vì đã phụ trách 'Cuộc Điều Tra Ma Thuật' (Nếu chúng ta không gặp nhau, tôi ngờ là liệu mình có thể viết được một câu truyện như thế này hay không!), Mineji Sakamoto vì phần minh họa đẹp đẽ, Gen Urobuchi, người không những tạo ra Waver của chúng ta mà còn tốt bụng đến mức chịu viết phần bình luận cho cuốn sách này, Ryougo Narita vì đã cho tôi lời khuyên trong suốt quá trình viết lách, và tất nhiên là Nasu Kinoko và Takashi Takeuchi, cùng với những người bên Type Moon có cái tên bắt đầu bằng O, K, S, G.
Và dĩ nhiên là, cũng gửi tới các bạn nữa, vì dành thời gian để đọc cuốn sách này. Tôi hy vọng, bằng cách nào, đó câu truyện này có thể làm nên một vài phép thuật cho cuộc sống của các bạn.
Tháng 11, năm 2014.
Khi đang đọc cuốn "Lời nói dối tháng Tư" của Naoshi Arakawa.
Makoto Sanda
Chú Thích[]
- ↑ 221B Baker Street, London: nơi cư ngụ của thám tử Sherlock Holmes, nhân vật trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nhà văn Arthur Conan Doyle.
- ↑ Luyện Ngục: theo Công Giáo, là nơi người sau khi chết trải qua quá trình rửa tội. Kẻ nào tội nặng sẽ đi tiếp xuống Địa Ngục, người nào rửa hết tội thì được lên Thiên Đàng, song cũng có kẻ mãi mãi kẹt lại ở Luyện Ngục.
- ↑ Hades là thần chết trong thần thoại Hy lạp.
- ↑ Giai thoại kể rằng theo luật xưa tại một số chợ như Bermondsey, hàng hóa được bán vào khoảng thời gian sau khi mặt trời lặn và trước lúc mặt trời mọc thì không bị tra xét; luật này đã bị bãi bỏ từ năm 1995.
- ↑ Beryl là khoáng thạch có màu sắc khác nhau tùy thuộc vào thành phần pha tạp trong nó.
- ↑ Samothraces là khu tự trị ở phía Đông Bắc Hy Lạp.
- ↑ Medusa là một nữ quỷ Gorgon có khả năng làm hóa đá bất cứ người nào nhìn vào mắt nó.
- ↑ Drinking bird: đồ chơi hình con chim vận hành theo nguyên lý nhiệt động lực học. Khi mỏ chim ướt, chim lắc lư tới lui. Khi hết lực tác động, mỏ chim gục vào ly nước, được thấm ướt và chim lại tiếp tục hoạt động.
- ↑ Ở Anh, tước Hiệp Sĩ là do Vua hoặc Nữ Hoàng phong. Ý Heine muốn nói cái tên "Hiệp sĩ" của mình chỉ là biệt hiệu chứ không phải tước vị thực sự.
- ↑ Taichō là thầy tu phái Shugendou được xem là người đầu tiên chinh phục núi Haku (Bạch Sơn) vào năm 717.
- ↑ Yuzen là phương pháp thủ công để nhuộm và vẽ hoa văn cho áo kimono.
- ↑ Derringer là loại súng ngắn bỏ túi có từ Thế kỷ 19.
- ↑ Bát Nhã Thang là tiếng lóng mà các tăng sĩ dùng để gọi rượu.
- ↑ Kabbalah trong tiếng Do Thái có nghĩa là "truyền thống". Theo Fate/Apocrypha, cha đẻ của khái niệm Kabbalah là Caster "Đen" aka Solomon ibn Gabirol.
- ↑ Sách Xuất Hành (Book of Exodus) là quyển 2 của Kinh Cựu Ước, nói về hành trình rời Ai Cập để đến miền đất hứa của dân Do Thái do Moses dẫn đầu.
- ↑ Thang độ cứng Mohs thể hiện tính chống trầy xước của khoáng vật. Hồng ngọc ở mức 9/10, độ cứng bằng khoảng 1/4 Kim Cương.
- ↑ Mont Saint-Michel: Núi Thánh Michael, một địa danh của Pháp được công nhận là Di sản Thế giới.
- ↑ The Wild Hunt: là truyện Thần Thoại Châu Âu kể về cuộc đi săn của nhiều chủng tộc và nhân vật thần thoại.
- ↑ Grand Guignol (1897-1962): sân khấu nổi tiếng của Pháp, chuyên diễn các vở kịch kinh dị.
- ↑ A-tu-la (Asuras) trong Thập Giới là cõi của loài A-tu-la. Loài này có tính khí nóng nảy và hay đấu đá lẫn nhau.
- ↑ Valhalla là lâu đài của thần Odin, hay "cung điện của những người tử trận" trong thần thoại Bắc Âu.
- ↑ Druid là tu sĩ của một tôn giáo Celtic cổ, không chỉ gồm các thầy tu mà còn có bác sĩ, người phát ngôn, cố vấn cấp cao.
- ↑ Sao Hỏa: trong tiếng Anh gọi là Mars - tên La Mã của Thần Chiến Tranh Ares.
- ↑ Sao Mộc: trong tiếng Anh gọi là Jupiter - tên La Mã của thần Zeus (còn được gọi là "Cha của thần Trời", "Cha của thần Ngày", hoặc "Chúa Cha").
- ↑ Súng máy Gatling là dòng súng máy do Richard J Gatling thiết kế. Mẫu M1893 có 6 - 10 nòng và tốc độ bắn trung bình là 600 viên trên phút.
- ↑ Cây Sinh Mệnh (Tree of Life): biểu tượng trong Kabbalah, một sơ đồ gồm 10 Sephirot và 22 Đường Nối.
- ↑ Nanael là thiên sứ bảo hộ cho học thức và giao tiếp. Cái tên "nanael" mang ý nghĩa "vị thần khinh thường kẻ kiêu ngạo".
- ↑ Hildegard von Bingen là một nữ tu sĩ Công Giáo thời Trung Cổ, về sau được tôn phong làm Tiến Sĩ Hội Thánh. Physica là bộ sách mà bà viết về đặc tính khoa học và y lý của nhiều loài thực động vật và các loại đá.
- ↑ Trong Nasuverse, thế giới mặt sau là thế giới của những điều thần bí, còn thế giới mặt trước là chỉ thế giới bình thường nói chung.
- ↑ Iron Maiden (Trinh Nữ Thép, Trinh Nữ Nuremberg): là dụng cụ tra tấn của Đức thời Trung Cổ; một cái tủ sắt mà trên nóc có hình cái đầu của một cô gái và mặt trong của cánh tủ có các gai nhọn. Brazen Bull (Con Bò Đồng, Con Bò Sicilia): là dụng cụ tra tấn thời Hy Lạp cổ đại; một con bò rỗng ruột làm bằng đồng, bên trong con bò có lắp một cái kèn để biến tiếng la hét thành tiếng bò kêu.
- ↑ Đây là lời nguyện nhập lễ bài 10 trong nghi thức tang lễ của Công Giáo, trong nguyên văn sử dụng tiếng Anh.
- ↑ Đáp án: 9 – 4 = 5
- ↑ Trong bản gốc, câu chú dùng song ngữ Anh-Nhật và có mâu thuẫn nhau, tiếng Anh đánh số 6 trong khi tiếng Nhật đánh số 7. Đối chiếu với manga thì số 6 là chính xác, nên ở đây để là 6
- ↑ Kịch rối bóng là một loại hình múa rối mà những con rối biểu diễn phía sau một phông màn, khán giả không được xem trực tiếp những con rối mà chỉ xem bóng của chúng in trên phông màn đó. Kịch rối bóng có xuất hiện trong phim the Karate Kid (2010).
- ↑ Tinh U Giới là từ mà người Nhật dùng để gọi cõi Astral, hay Cõi Trung Giới (Astral Plane), một thuật ngữ Thông Thiên Học để chỉ cõi giới mà con người thoát ly về vật chất, nhưng vẫn còn vướng bận về cảm xúc để có thể đi lên các cõi giới tâm linh cao hơn
- ↑ Dải Möbius: một dạng hình học Tô-pô, một dải băng được vặn xoắn và nối hai đầu lại với nhau.
- ↑ Chân ngôn của Đại Nhật Như Lai trong Thai tạng giới của Mật giáo.
- ↑ Dr. Watson: nhân vật phụ tá của thám tử Sherlock Homes trong tiểu thuyết của nhà văn Arthur Conan Doyle.