Sonako Light Novel Wiki
Advertisement
Lưu Pocket Xuất PDF
Pocket_Image.png Print_page.gif

Chương 1: Binh nhất Kiriya[]

1[]

Khi những viên đạn bắt đầu bay, chuyện nỗi sợ ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian.

Mày đây rồi, những tử thần thép rít gào trong không trung.

Những viên đạn pháo từ đằng xa nổ vang những âm thanh trầm thấp và nghẹn ngào, thứ thanh âm rỗng tuếch khiến bạn cảm nhận nhiều hơn là nghe. Những viên ở gần thì nổ những tiếng cao và trong. Chúng gào thét bằng âm thanh khiến bạn run cầm cập, và bạn biết chúng là những viên nhắm vào bạn. Chúng xẻ sâu xuống đất, phủ xuống một màn bụi mù và treo nguyên ở đó, chờ đợi loạt đạn tiếp theo xé tung ra.

Hàng ngàn viên đạn thiêu cháy cả khoảng trời–– những mảnh kim loại chẳng to hơn ngón tay bạn––và chỉ cần một viên là đủ giết chết bạn. Chỉ cần một viên là đủ biến chiến hữu tốt nhất của bạn trở thành miếng thịt luộc.

Tử thần tới rất nhanh, chỉ trong một nhịp tim thôi, và hắn ta chẳng kén cá chọn canh đâu.

Những người lính mà hắn ta đến đón trước–– tức là lúc họ còn chưa kịp nhận ra cái gì bắn trúng họ––chính là những người may mắn. Hầu hết những người lính đều chết từ từ trong đau đớn, xương cốt họ vỡ vụn, nội tạng dập nát, máu chảy ròng ròng trên mặt đất. Họ nằm giữa bùn lầy, đơn độc chờ đón Tử thần tới sau lưng và vắt kiệt chút hơi tàn cuối cùng của họ với bàn tay băng giá của hắn.

Nếu thiên đường có tồn tại, vậy nó hẳn phải là một nơi rất lạnh. Một nơi rất tối. Rất đìu hiu.

***

Tôi đang sợ hãi.

Tôi túm lấy cò súng với những ngón tay tê cứng; hai bàn tay tôi run rẩy khi xối cả một trận mưa những viên thép nóng cháy xuống đầu quân thù. Khẩu súng giật nẩy theo từng nhịp khai hỏa. Vunk. Vunk. Vunk. Chuỗi âm thanh còn đều đặn hơn cả nhịp tim. Linh hồn của người lính không nằm trong thân thể của anh ta. Nó nằm trong vũ khí. Nòng súng nóng lên cho tới khi cháy sáng, cái nóng biến nỗi sợ thành cơn giận dữ.

Fuck mấy gã thượng cấp cùng cái lý do chết tiệt bào chữa cho đội không quân!

Fuck cái đội trọng giáp và cái mớ kế hoạch không đáng một xu khi cái đống cứt nát kia bắt đầu bay!

Fuck bọn pháo binh chết dẫm dám chùn bước bên sườn bên trái!

Fuck cái thằng chết tiệt vừa đi tự sát!

Và hơn tất cả, fuck bất cứ cái gì nhắm vào tao! Sử dụng cơn tức giận như một nắm đấm thép và đấm vỡ mặt chúng nó ra.

Nếu nó động đậy, chết tiệt!

Tôi phải giết sạch chúng. Ngăn chúng không động đậy.

***

Tiếng thét rít lên qua hàm răng siết chặt.

Khẩu súng trường của tôi bắn 450 viên 20mm một phút, nên một băng đạn vèo phát là hết. Nhưng chẳng có lý do gì phải chần chừ cả. Một khi bạn đã chết thì có bao nhiêu đạn cũng vậy. Đến lúc nạp một băng đạn mới rồi.

“Nạp đạn!”

Người lính tôi vừa mới thét lên ra lệnh đã chết. Mệnh lệnh của tôi chết cứng giữa không trung, một làn sóng âm vô nghĩa. Tôi lại siết lấy cò súng.

Gã đồng đội Yonabaru của tôi ăn một phát ngay khi chúng vừa bắn trả vòng đầu––một trong những mũi lao kia. Nó cắm thẳng vào người hắn ta, xé toang bộ trọng giáp. Đầu giáo nhô ra nhuốm đầy những máu, dầu và những chất lỏng không xác định. Bộ giáp cơ giới lảo đảo theo vũ điệu của tử vong trong tầm mười giây rồi cuối cùng ngừng hẳn.

Không cần phải gọi đội quân y. Hắn ta có nguyên một cái lỗ ngay dưới ngực, cách chỉ khoảng hai centimet, và đâm gọn gàng xuyên qua lưng hắn ta. Lực ma sát thiêu cháy mép vết thương, để lại những đốm lửa ố vàng nhảy nhót ở miệng. Tất cả xảy ra chỉ ngay sau phút đầu tiên phát lệnh tấn công.

Hắn ta là kiểu người thích ganh đua kể cả ở những hạng mục nhảm nhí nhất, hoặc là nói toạc ra thủ phạm trong bộ truyện trinh thám trước cả khi bạn kịp đọc xong chương đầu. Nhưng hắn ta không đáng phải chết.

Tiểu đội của tôi –– 146 gã đàn ông từ Đại đội #17, Tiểu đoàn #3, Trung đoàn #12, Sư đoàn bộ binh vũ trang #301 –– được gửi tới để tăng viện cho cực bắc Đảo Kotoiushi. Họ ném chúng tôi xuống bằng máy bay lên thẳng để tấn công cánh trái quân thù từ hậu phương. Nhiệm vụ của chúng tôi là triệt hạ những kẻ đào thoát khi quân chủ lực tại tiền tuyến hẳn là bắt đầu đẩy chúng lui về.

Quá xá là “hẳn là” rồi.

Yonabaru thậm chí chết còn trước khi cả cuộc chiến bắt đầu.

Không biết hắn ta phải chịu đựng thế nào.

Ngay lúc tôi nhận ra chuyện gì đang diễn ra, tiểu đội của tôi đã ở ngay giữa chiến trường. Chúng tôi phải chống đỡ hỏa lực của cả quân thù và quân ta. Tất cả những gì tôi nghe được là những tiếng thét, tiếng nức nở và “Đệt!” Đệt! Đệt! Đệt! Đệt! Những câu chửi thề phun ra ào ạt như đạn bay. Đội trưởng đã chết. Trung tá đã chết. Tiếng vù vù từ máy bay cứu viện tắt lịm tự khi nao. Đường dây liên lạc đã bị cắt. Đại đội bị xé toang ra.

Lý do duy nhất khiến tôi vẫn còn sống là vì tôi đang mang lớp bảo vệ Yonabaru mua.

Trong khi những người khác đạp đất chiến đấu, tôi lại trốn trong bộ giáp cơ giới, run rẩy như cầy sấy. Những bộ giáp cơ giới này là loại giáp bọc hợp kim của Nhật Bản khiến cả thế giới ghen tị và ngưỡng mộ. Chúng bao kín từ đầu tới chân bạn. Tôi nhận thấy nếu bộ giáp bị đâm xuyên qua tầng thứ nhất thì nó sẽ không bao giờ xuyên tiếp được lớp thứ hai. Vậy nên nếu tôi đứng khuất tầm nhìn đủ lâu, kẻ địch hẳn đã rời đi khi tôi đi ra. Chuẩn chứ?

Tôi sợ đến són cả ra quần.

Như bất kỳ tay lính mới nào vừa mới chui ra khỏi trại huấn luyện, tôi có thể sử dụng súng hay khoan phản lực, nhưng tôi vẫn không biết sử dụng chúng thế nào cho hiệu quả. Ai mà chả biết kéo cò. Pằng! Nhưng làm thế quái nào để biết lúc nào nên bắn, bắn vào chỗ nào khi bị bao vây? Lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra tôi chả biết đến điều cơ bản nhất trong chiến tranh.

Lại một mũi giáo nữa xẹt qua đầu tôi.

Tôi nếm được mùi máu tươi trong miệng. Cái mùi rỉ sét. Bằng chứng cho tôi biết tôi vẫn còn sống.

Lòng bàn tay nhễu nhại, nhầy nhụa trong đôi găng tay. Từng hồi rung động bên trong chiến giáp báo cho tôi biến năng lượng chẳng còn là bao. Tôi ngửi thấy mùi dầu máy. Bộ lọc khí nằm trên cái chân cuối cùng của nó, và cái mùi hôi thối của chiến trường đang chen chúc xộc vào bên trong áo giáp, cái mùi xác chết quân thù từa tựa cái mùi của những chiếc lá bị vò nát.

Tôi vẫn chưa có cảm giác gì từ phần thân dưới. Đáng lẽ chỗ tôi bị bắn phải đau lắm, nhưng hóa ra lại không. Tôi không chắc đây là tốt hay xấu. Đau đớn cho bạn biết bạn còn sống hay đã chết. Ít nhất tôi cũng không phải lo lắng chuyện buồn tiểu trong giáp.

Xuyên qua màn khói lựu đạn. Chỉ còn lại ba mươi sáu viên kẹo đồng 20mm. Băng đạn chỉ còn trụ được năm giây. Khẩu súng phóng lựu –– cái họ chỉ vứt cho bọn tôi mỗi ba quả tên lửa –– đã rơi đi đâu không biết trước cả khi tôi kịp bắn cái gì. Cái camera gắn trên đầu hoàn toàn lãng phí, phần giáp bên tay trái đã tan tát thành từng mảnh, và kể cả khi mở hết công suất thì bộ Chiến giáp chỉ hoạt động được 40 phần trăm hiệu suất. Kì diệu là mũi khoan phản lực trên vai trái của tôi vẫn nguyên vẹn không một vết trầy.

Khoan phản lực là một vũ khí cận chiến dùng hỏa lực nén để bắn ra những cây gai hợp kim vonfram cacbua –– chỉ dùng để chống lại những kẻ địch ở cự ly trong tầm với. Vỏ đạn chứa thuốc súng của nó to như nắm tay. Với cú va chạm chính diện với góc tới chín mươi độ, thứ duy nhất trụ được trước nó là giáp xe tăng. Đầu tiên khi người ta bảo tôi băng đạn nó chỉ bắn được hai mươi loạt, tôi không nghĩ rằng ai mà sống dai tới mức dùng hết từng đó chứ. Tôi nhầm to.

Tôi chỉ còn lại bốn viên.

Tôi đã bắn mười sáu lần, và trượt mất mười lăm –– không, chắc là mười sáu.

Màn hình phủ trong bộ giáp đã bị nhiễu. Tôi chẳng thấy được cái vẹo gì chỗ màn hình bị bẻ. Rất có thể ngoài kia đang có một kẻ địch đứng ngay trước mặt tôi mà tôi chẳng biết gì.

Họ nói một tay kỳ cựu đã quen thuộc với Chiến giáp có thể bao quát chung quanh mà chẳng cần tới camera. Trên chiến trường, xúc giác quan trọng hơn thị giác. Bạn phải cảm nhận thấy những cơn chấn động xuyên qua từng lớp kim loại và sứ, thẩm thấu vào bên trong cơ thể. Đọc được từng cái kéo cò. Cảm nhận nền đất qua những đế giày. Nắm bắt số lượng qua một mớ máy đo chi chít như kính vạn hoa và đọc được trạng thái trên chiến trường trong tích tắc. Nhưng tôi chả làm được cái gì trong đó cả. Một tên lính quèn mới ra trận lần đầu thì biết cái vẹo gì.

Thở ra. Hít vào.

Áo quần của tôi giờ nồng nặc mồ hôi. Cái mùi ghê tởm. Nước mũi thì chảy dài, nhưng tôi chẳng thể vuốt nó đi.

Tôi kiểm tra đồng hồ bên cạnh màn hình. Sáu mươi mốt phút đã qua từ khi trận đấu bắt đầu. Sáu mươi mốt bãi phân. Tôi cảm giác như tôi đã đánh nhau mấy tháng ròng ấy.

Tôi nhìn trái, phải. Trên, dưới. Tôi siết chặt nắm đấm bên trong găng tay. Tôi không được phép sử dụng quá nhiều thể lực. Tôi phải tự nhắc nhở chính mình. Lạm dụng đi, và mày sẽ run tay rồi bắn trật hết.

Chẳng có thời gian để kiểm tra máy đo tần số Doppler đâu. Giờ là phải bắn và bất cần đời.

Thak thak thak thak!

Một đám bụi mù bốc lên.

Từng loạt đạn của quân thù cứ như xé gió bên tai tôi, còn của tôi thì cứ như bị gió thổi bạt xuống sau khi ra khỏi nòng, cứ như kẻ thù phẩy tay thổi bay chúng đi vậy. Trung sĩ giáo quan của chúng tôi nói súng đạn có thể bay như đùa vậy đấy. Bạn hỏi tôi ư, tôi thấy cuộc chiến chỉ công bằng khi bọn chúng cũng phải nghe tiếng vỏ máy rít từng hồi bên tai chúng. Tất cả chúng tôi đều phải cảm nhận được hơi thở của Tử Thần phả sau gáy, cả địch lẫn ta.

Nhưng với những kẻ thù phi nhân loại, bước chân của Tử Thần nghe như thế nào? Liệu chúng có chút sợ hãi nào không?

Kẻ thù của chúng tôi –– kẻ thù của Liên hợp Lực lượng Phòng vệ –– là những con quái vật. Mimic, chúng tôi gọi chúng là vậy.

Súng của tôi đã hết đạn.

Bóng dáng của một vật thể hình cầu méo mó lấp ló sau đám bụi mù nâu màu đất sét. Nó lùn hơn một người bình thường. Nó hẳn đứng tới vai một người lính đã được vũ trang Chiến giáp. Nếu con người là một cây sào phơi dựng đứng, vậy một con Mimic sẽ là một cái thùng phuy béo mập –– một cái thùng phuy với bốn chân và đuôi, hẳn là vậy. Nếu phải nói cụ thể, nó na ná như cái xác trương phình của một con ếch bị chết trôi. Theo mấy thằng mắt đít chai mồm hay lải nhải trong phòng thí nghiệm thì chúng có nhiều điểm tương đồng với sao biển, nhưng mà đấy là mấy điều vụn vặt thôi.

Chúng bé hơn một người bình thường, vậy nên tất nhiên là chúng khó bắn trúng hơn. Mặc dù kích cỡ bé, chúng lại nặng hơn người thường. Nếu bạn lấy một cái thùng tô nô ngoại cỡ, cái loại mà người Mỹ hay dùng để chưng cất rượu ấy, và đổ đầy cát ẩm vào thì nó nặng nặng tầm ấy. Không phải cái loại mà một loài động vật có vú với 70 phần trăm cơ thể là nước có thể trông đợi. Một cú quật đơn giản từ một trong những cái chân kia có thể xé một người đàn ông thành ngàn mảnh nhỏ. Những mũi lao của chúng, phóng ra từ những cái lỗ trên cơ thể chúng, có sức công phá ngang ngửa những viên đạn 40mm.

Chiến đấu với chúng, chúng tôi phải sử dụng máy móc để tăng cường sức mạnh. Chúng tôi phải trèo lên bộ giáp cơ khí Chiến giáp –– thành tựu mới nhất và vĩ đại nhất của khoa học. Chúng tôi bó mình vào bên trong lớp lông nhím bằng kim loại, cái thứ chắc chắn tới mức nã đạn trực diện vào nó chẳng thể để lại nổi một vết trầy. Chúng tôi đối mặt với Mimic bằng trang bị như thế đấy, vậy mà chúng tôi vẫn bị vượt trội.

Mimic không gieo rắc mối sợ hãi theo bản năng mà bạn thường gặp khi đối diện với một con gấu mẹ đang bảo vệ con, hay bắt gặp ánh mắt của một con sư tử đói khát. Mimic không gầm rống. Chúng trông chẳng đáng sợ lắm. Chúng không sải cánh ra hay đứng trên những chiếc chân sau để khiến chúng trông đáng sợ hơn. Chúng chỉ đơn giản là lạnh lùng hơn cả máy móc. Tôi cảm giác như một con nai vàng ngơ ngác dưới ánh đèn pha, cứng đờ trên đường nhìn chiếc xe tải lao tới. Tôi vẫn không hiểu nổi làm thế quái nào mà tôi lại mắc kẹt trong cái tình huống này.

Tôi hết đạn rồi.

Lâu quá, Mẹ ơi.

Tôi sắp sửa chết trên cái chiến trường chết tiệt này. Trên cái hòn đảo khỉ ho cò gáy nơi bạn bè không, gia đình không, bạn gái không. Trong đau đớn, trong sợ hãi, đũng quần bầy nhầy cứt do sợ hãi. Và tôi thậm chí còn không thể nhấc lên cái vũ khí cuối cùng tôi còn lại để chống cự lại trước cái con chó má đang lao điên cuồng về phía tôi. Cứ như là nhiệt huyết trong tôi lụi tàn sau phát đạn cuối cùng vậy.

Mimic đang tới chỗ tôi.

Tôi có thể nghe thấy hơi thở của Tử Thần phả vào tai.

Cái bóng to lù lù của hắn hiện trên màn hình trước mắt.

Giờ tôi đã thấy hắn; cơ thể ngập trong máu tươi. Lưỡi hái của hắn, một con quái thú dài hai mét, trông như một u hồn vậy. Thực ra nó giống một cái rìu chiến hơn là lưỡi hái. Trong cái thế giới nơi bạn và thù đều khoác lên lớp vỏ ngụy trang màu khói bụi, hắn ta múa may cái thứ đồng thau đỏ ối kia chao liệng muôn phương.

Tử thần lao tới, còn nhanh hơn cả Mimic. Một cái chân đỏ sậm tung cước và tôi bay thẳng ra ngoài.

Giáp của tôi vỡ vụn. Tôi ngừng thở. Trời đất đảo lộn. Màn hình ngập trung những biển báo màu đỏ. Tôi ho ra máu, miễn khỏi rắc rối với mấy cái cảnh báo.

Rồi mũi khoan phản lực của tôi khai hỏa. Vụ nổ thổi tôi bay lên tối thiểu mười mét trên không. Nguyên phần giáp lưng của Chiến giáp rải rác trên nền đất. Tôi chổng ngược mà hạ cánh.

Tử thần vung cái rìu chiến của hắn.

Kim loại kêu kin kít khi hắn cắt phăng những thứ không thể cắt. Chiếc rìu rít gào như đoàn tàu chở hàng cập bến sân ga.

Tôi thấy lớp mai rùa trên thân con Mimic xé toạc không trung mà bay tới.

***

Chỉ cần một đòn là biến con Mimic thành một đống phế liệu. Cát bụi bay ra từ miệng vết thương. Hai nửa của thứ sinh vật kia run rẩy và co giật, mỗi nửa đều co giật theo nhịp độ riêng. Thứ sinh vật mà phát minh vĩ đại nhất của khoa học công nghệ loài người cũng chỉ để lại vài vết trầy lại tan nát trước một món vũ khí man rợ của cả ngàn năm trước.

Tử thần chậm rãi quay về phía tôi.

Giữa vô vàn những ánh đèn cảnh báo đỏ rực chen chúc trên màn hình, một ánh đèn xanh lục đơn độc nháy sáng. Một thông điệp thân thiện truyền tới. “...Ráng một chút thôi... được chứ?” Là giọng nữ. Không thể nói thành lời. Tôi không thể đứng. Bộ Chiến giáp đã tàn lụi và tôi cũng vậy. Tôi dồn tất cả chút hơi tàn còn lại chỉ để xoay người lại.

Sau khi xem xét kĩ càng, tôi nhận ra đó chẳng phải thành viên của quân đoàn những Thiên thần Báo tử. Đó chỉ là một người lính khác trong bộ Chiến giáp. Một bộ Chiến giáp trông không giống bộ của tôi lắm, vì nó xách theo cái rìu chiến khổng lồ kia, nơi đáng lẽ là chỗ của súng khoan phản lực thông thường. Huy hiệu trên vai không in chữ JP mà là U.S. Thay vì mang màu nâu trộn giữa màu cát và màu cà phê để ngụy trang, bộ giáp rực rỡ một màu kim loại đỏ thẫm từ đầu tới chân.

Full Metal Bitch.

Tôi đã nghe những lời đồn. Một con nghiện chiến tranh luôn theo đuổi chiến đấu mặc cho nó dẫn tới đâu. Nghe đồn trong số tất cả những con Mimic bị giết kể từ trước tới nay, cô ta cùng Biệt đội Đặc nhiệm của cô ta từ Quân đội U.S chiếm phân nửa. Có lẽ bất cứ ai từng thấy cảnh chiến đấu điên cuồng kia và còn sống mà kể lại đều là Thiên thần Báo tử hết.

Vẫn còn mang theo cái rìu chiến hai lưỡi, bộ Chiến giáp rực cháy kia nhìn về phía tôi. Cánh tay nó vươn ra và mò mẫm lá cờ in trên quân hàm trên vai tôi. Tín hiệu liên lạc truyền tới.

“Có một chuyện tôi vẫn luôn muốn biết.”

Giọng của cô ta vang vọng trong khoang lái, trong vắt như pha lê. Một giọng nói dịu dàng và tươi sáng, khá tương phản với cái rìu hai lưỡi dài hai mét và tràng cảnh tàn sát mà cô ta vừa gây ra.

“Có phải ở Nhật Bản, sau bữa ăn thì trà xanh được phục vụ miễn phí không?”

Cát bụi bay ra từ con Mimic tan vào trong gió. Tôi có thể nghe thấy rõ tiếng xào xạc từ đằng xa khi chúng bay đi. Đây là chiến trường, là đống hoang tàn nơi Yonabaru, Đội trưởng Yuge, và tất cả những người khác trong tiểu đội của tôi đã chết. Một khu rừng kim loại phế tích. Một nơi mà bộ quân phục của bạn ngập đầy phân và nước tiểu của chính mình. Nơi bạn tự thân dính vào một mớ bầy nhầy những máu và bùn.

“Do tin vào mọi thứ tôi đọc nên tôi đã từng gặp tương đối nhiều rắc rối. Vậy nên tôi nghĩ để cho an toàn, tôi nên hỏi một người bản địa,” cô ta tiếp tục.

Tôi nằm đây, chết ngắc ngoải đến nơi, người dính đầy cứt, và cô muốn nói về chuyện trà triếc à?

Ai lại tới chỗ một người, sút bay người đó xuống đất, và rồi hỏi về trà hả? Trong đầu cô có cái bã đậu gì vậy? Tôi muốn cho cô ta biết suy nghĩ trong đầu, nhưng chẳng nói nổi nên lời. Tôi có thể nghĩ ra từ ngữ để nói trong đầu, nhưng miệng tôi dường như đã quên mất cách vận hành –– một chuỗi dài lê thê những câu nguyền rủa hay ho nhất tắc nghẹn trước đầu môi.

“Mấy quyển sách là vậy đấy. Phân nửa thời gian tác giả chả biết hắn ta đang viết cái quái gì –– đặc biệt là những người không phải là tiểu thuyết gia chiến tranh. Giờ anh cứ thả lòng ngón tay siết cò ra và nhẹ nhàng, nhẹ nhàng hít thở nào.”

Lời khuyên hữu ích thật. Hít thở chừng một phút, tôi bắt đầu nhìn thẳng tới phía trước. Âm thanh của người phụ nữ ấy luôn khiến tôi bình tĩnh lại. Đau đớn tôi bỏ mặc trong trận chiến giờ lại cồn cào trong ruột. Bộ Chiến giáp phản ứng theo từng cơn chuột rút, khiến nó run rẩy nhè nhẹ. Tôi nhớ tới vũ điệu của bộ giáp của Yonabaru trước khi chết.

“Đau không?”

“Cô nghĩ sao?” Câu trả lời chẳng khác gì lời thì thầm khàn khàn cả.

Bộ Chiến giáp màu đỏ cúi đầu gối xuống, kiểm tra mảnh vỡ của vỏ giáp in quân hàm trên bụng tôi. Tôi hỏi. “Trận chiến thế nào rồi?”

“Sư đoàn #301 đã rút lui. Tiền tuyến đã bị đẩy lùi ra bờ biển để tập hợp lại.”

“Còn đội của cô thì sao?”

“Chẳng việc gì phải lo cho họ cả.”

“Vậy ... giờ tôi trông thế nào?”

“Nó đâm nát vào phía trước, nhưng lớp giáp phía sau chặn nó lại. Nó cháy rất dữ đội.”

“Dữ dội như thế nào?”

“Rất dữ dội.”

“Cái Đệt.” Tôi nhìn lên bầu trời cao. “Có vẻ như nó bắt đầu trong xanh rồi.”

“Ừ. Tôi thích bầu trời ở đây.”

“Tại sao?”

“Nó trong xanh. Đánh nhau có làm bầu trời trong ra được đâu.”

“Tôi sắp chết à?”

“Ừ,” cô ta bảo.

Tôi cảm thấy nước mắt đong đầy trong hốc mắt. May mà cái mũ đã che kín khuôn mặt tôi. Tôi giữ nỗi xấu hổ đó chỉ cho riêng mình mà thôi.

Chiến giáp đỏ rực nhẹ nhàng ôm lấy đầu tôi. “Tên anh là gì? Không phải là số hiệu hay số sê ri. Tên anh cơ.”

“Keiji. Keiji Kiriya.”

“Tôi là Rita Vrataski. Tôi sẽ ở đây với anh cho tới khi anh chết.”

Cô ấy không thể nói ra những lời tôi muốn nghe, nhưng tôi không định để cho cô ta biết. “Nếu cô ở lại cô cũng sẽ chết đấy.”

“Tôi có lý do. Khi anh chết, Keiji, tôi sẽ lấy pin năng lượng Chiến giáp của anh.”

“Lạnh lùng vậy.”

“Không cần phải căng thẳng. Thả lỏng đi. Đi nào.”

Tôi nghe thấy âm thanh điện tử kêu lép nhép –– tín hiệu liên lạc truyền tới từ mũ của Rita. Đó là giọng đàn ông. Đường truyền giữa Chiến giáp của chúng tôi tự động truyền âm thay cho tôi.

“Calamity Dog, Thủ trưởng Breeder đây.”

“Tôi nghe đây.”

“Khu vực Alpha và vùng lân cận đã được kiểm soát. Đoán chừng chúng ta có thể cầm chân trong ba mươi phút là tối đa. Đến lúc lấy cái pizza đó đi rồi đấy.”

“Calamity Dog nghe rõ. Ngắt liên lạc từ lúc này.”

Chiến giáp đỏ rực đứng dậy, ngắt liên kết liên lạc giữa chúng tôi. Đằng sau cô ta, một vụ nổ bùng phát. Tôi cảm thấy mặt đất run rẩy qua từng đốt xương sống. Một quả bom định vị laser rơi từ trên cao xuống. Nó đào sâu xuống nền đất, xuyên phá tầng đất đá rồi nổ tung. Mặt đất ngập cát trắng phình ra như một chiếc bánh nướng quá chín; bề mặt nứt toác ra và thổi bay lớp đất đá màu nâu sậm, cái màu của nhựa cây tung bay lên trong không trung. Bùn rơi xối xả trên giáp của tôi. Chiếc rìu chiến của Rita lóe sáng.

Màn khói tan đi.

Tôi có thể thấy một mớ bùng nhùng tại tâm của cái hố bom khổng lồ sau vụ nổ: kẻ thù. Từng chấm đỏ nở bung trên màn hình ra đa của tôi, chi chít tới mức dính lại cả vào nhau.

Tôi nghĩ tôi đã thấy Rita gật đầu. Cô bật tới phía trước, lao thằng vào chiến trường. Chiếc rìu hai lưỡi vung lên rồi hạ xuống. Mỗi một lần lóe sáng, một con Mimic lại bay ra. Cát bụi chảy ra từ vết thương của chúng cuộn tròn theo lưỡi rìu vung vẩy. Cô ta xẻ đôi chúng như dùng dao laser để cắt phô mai vậy. Chuyển động của cô ta hợp thành một vòng tròn quanh tôi, bảo vệ tôi. Rita và tôi đã cùng trải qua kỳ huấn luyện, nhưng cô ta thì như một Chiến thần còn tôi thì nằm trên mặt đất, một món đồ chơi ngu xuẩn đã hết pin. Không ai bắt tôi phải ở đây. Tôi đã tự đưa bản thân tới cái bãi đổ nát của chiến trường, và tôi còn chưa làm nổi điều gì giúp ích cho mọi người. Đáng lẽ tôi nên bám dính lấy Yonabaru. Ít nhất tôi cũng không khiến người lính nào gặp nguy hiểm khi cố bảo vệ tôi.

Tôi quyết định không để bản thân chết đi khi khoan phản lực vẫn còn ba mũi.

Tôi nhấc chân lên. Tôi đặt một tay lên đầu gối.

Tôi đứng dậy.

Tôi gào thét. Tôi gồng mình bắt bản thân tiếp tục bước đi.

Chiếc Chiến giáp đỏ quay về phía tôi.

Tôi nghe thấy tiếng ồn ào nào đó bên trong tai nghe, nhưng tôi không nghe được cô ta đang cố nói gì.

Một con Mimic trong mớ lùng nhùng kia đứng dậy. Nó trông không khác lắm so với những con khác. Chỉ là một con ếch trương phình chết trôi khác. Nhưng có gì đó khiến nó khác so với những con còn lại. Có lẽ trạng thái cận kề cái chết đã mài bén những giác quan của tôi, nhưng có lẽ tôi biết rằng đó là con mà mình phải chiến đấu.

Và những gì tôi làm là vậy. Tôi nhảy tới chỗ con Mimic và nó vung cái đuôi quật về phía tôi. Tôi cảm thấy cơ thể nhẹ bẫng. Một trong hai cánh tay bị chém đứt. Bàn tay phải –– khẩu khoan phản lực nằm ở bên tay trái còn nguyên vẹn. May quá. Tôi kéo cò.

Khai hỏa, góc tới chín mươi độ.

Thêm một phát nữa. Một cái lỗ mở ra trên mai giáp của cái thứ đó.

Thêm một phát nữa. Trời đất tối sầm.


2[]

Quyển sách tôi đang đọc dở nằm bên cạnh cái gối.

Đó là một cuốn tiểu thuyết kỳ bí về một thám tử người Mỹ có vẻ như rất hiểu biết về người phương Đông. Tôi đưa ngón trỏ chỉ vào cảnh nơi những nhân vật chủ chốt gặp mặt và ăn tối tại một nhà hàng Nhật Bản giữa lòng New York. Khách hàng của thám tử, một người Italia, muốn gọi một tách cà phê Espresso sau bữa ăn, nhưng thám tử cản anh ta lại ngay. Ông ta bắt đầu luyên thuyên về chuyện tại nhà hàng Nhật Bản, họ phục vụ trà xanh sau bữa ăn tối, nên anh không phải gọi gì cả. Rồi anh ta lại bẻ lái sang chuyện trà xanh hợp với xì dầu ra sao, và ồ, tại sao ở Ấn Độ người ta cho muối vào trà sữa? Cuối cùng ông ta gọi tất cả những người liên quan tại một nơi, và nói toạc ra mọi thứ ngoại trừ hung thủ đích thực.

Tôi xoa xoa hai mắt.

Đưa tay sờ xuống chiếc áo sơ mi, tôi mơ hồ cảm thấy bụng của mình xuyên qua lớp vải. Tôi đã luyện được bộ cơ bụng sáu múi mà nửa năm trước chưa có. Không có dấu tích của bất kì vết thương nào, không hề có mảng thịt cháy nào. Tay phải của tôi nằm ngay ngắn ngay chỗ của nó. May quá. Giấc mơ chết tiệt.

Tôi hẳn đã ngủ gục trong khi đọc sách. Tôi đáng lẽ phải biết có chuyện gì đó không ổn khi Waragarita Điên loạn bắt đầu trò chuyện về những cuốn tiểu thuyết kỳ bí. Những tay lính đặc nhiệm Mỹ, những người băng qua Thái Bình Dương chỉ để ngửi mùi máu chẳng thể nào có thời gian để đọc những cuốn sách nóng hổi và bán chạy nhất. Nếu họ có thời gian rảnh, họ hẳn chỉ dành thời gian đó để vặn vẹo bên trong Chiến giáp thôi.

Cái cách khởi động ngày mới hay ghê. Hôm nay sẽ là lần đầu tiên tôi được thưởng thức hương vị chiến tranh đích thực. Tại sao tôi lại không mơ về chuyện thổi bay vài tên nhân vật phản diện, thăng một tới hai bậc quân hàm cơ chứ?

Trên tầng trên của giường xếp ngay phía trên tôi, một chiếc radio với hệ âm bass đi đứt từ đời nào đang quang quác hát –– một thể loại nhạc rock từ thời tiền sử cổ xưa tới mức ông già nhà tôi cũng chẳng thể nhận ra. Tôi có thể nghe thấy những âm thanh thình thình đầy sức sống, những tiếng chát chúa rời rạc phát ra từ mọi phía, và trên tất cả, cái giọng như phê thuốc của tên DJ lải nhải cùng bản tin dự báo thời tiết. Tôi có thể cảm thấy từng từ ngữ xuyên sâu vào sọ. Ngoài đảo kia trời vẫn trong và đầy nắng ấm, y như hôm qua, với cảnh báo về tia cực tím UV vào buổi chiều. Cẩn thận bị cháy nắng!

Doanh trại chẳng có gì mấy ngoài bốn bức tường làm từ gỗ không cháy xếp chồng lên nhau. Một tấm poster in hình một cô nàng mặc đồ bơi mang làn da màu đồng hấp dẫn treo trên tường. Ai đó đã thay đầu của cô nàng thành một bức ảnh chụp của thủ tướng cắt ra từ báo trong đơn vị. Đầu của cô nàng bikini cười nhạt thếch tại mái nhà mới –– bên trên một gã lực sĩ thể hình đầy cơ bắp trên một tấm poster khác gần đó. Đầu của gã lực sĩ cơ bắp thì mất hút đi đâu không biết.

Tôi vươn vai duỗi người trên giường. Những khung hợp kim nhôm kêu lên rệu rã.

“Keiji, kí cái này.” Yonabaru nghểnh cổ xuống từ bên hông tầng giường trên. So với một người bị một cái cọc xuyên qua mà tôi vừa thấy thì hắn ta trông rất ổn. Người ta bảo ai mà chết trong mơ thì sẽ sống mãi.

Jin Yonabaru đã gia nhập trước tôi ba năm. Ba năm tăng cân, ba năm rèn luyện cơ bắp. Cái hồi hắn ta còn là dân thường hắn ta gầy như que củi. Giờ thì rắn chắc như đá. Hắn ta là một người lính, và trông quả thực rất giống một người lính.

“Cái gì vậy?”

“Đơn thú tội. Cái mà hôm qua anh bảo ấy.”

“Hôm qua em kí rồi mà.”

“Thật á? Lạ nhể.” Tôi có thể nghe thấy tiếng hắn ta soát qua soát lại mấy tờ giấy. “Không, không có ở đây. Chà, thôi chú cứ kí lại cho anh đi, được chứ?”

“Anh định lừa em đấy à?”

“Chỉ khi chú nằm trong một cái bao đựng xác và trở về thôi. Bên cạnh đó, chú mày chỉ có thể chết một lần thôi mà, nên có kí thêm bao nhiêu bản sao thì khác quái gì nhau chứ?”

Những người lính UDF (Union Defence Force- cách gọi khác của quân đội) tại tiền tuyến có một truyền thống. Ngày trước khi chiến dịch nổ ra, họ sẽ lẻn vào PX (Post Exchance – trạm cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội) và khoắn đi một ít rượu. Uống và ăn mừng, vì một ngày mai chết trận. Mũi tiêm trước khi lên đường sẽ tiêu trừ sạch mọi chất cồn trong máu bạn. Nhưng nếu bạn bị bắt, họ sẽ đưa bạn tới trước ủy ban kỉ luật –– hoặc có thể là tòa án quân sự nếu bạn chơi đùa quá tay –– sau khi kiểm kê kho khi trận chiến đã kết thúc và mọi người đều đã quay về đơn vị. Tất nhiên, khó mà định tội một cái xác được. Chính vì vậy chúng tôi đều để lại biên bản giải thích chuyện trộm cắp là do chúng tôi làm trước trận chiến. Tất nhiên, khi công cuộc điều tra bắt đầu, kiểu gì cũng có một tay đã chết bị biến thành kẻ chủ mưu. Chế độ này rất hay. Những người điều hành PX cũng biết tỏng lũ trộm cướp, nên họ luôn đảm bảo chỉ để lại một vài chai để không bị mất quá nhiều. Bạn sẽ nghĩ sao họ không mặc kệ và để mọi người uống vài xị đêm trước trận chiến –– vì mục đích khích lệ nhuệ khí, hẳn là vậy –– nhưng không, chuyện này cứ diễn ra liên tục y hệt như vậy, hết lần này qua lần khác. Những ý tưởng chuyên nghiệp chẳng thể nào đối chọi được trước những gã quan liêu chuyên nghiệp đâu.

Tôi bắt lấy tờ giấy từ tay Yonabaru. “Hay thật, em cứ nghĩ mình sẽ lo lắng hơn cơ.”

“Sớm vậy á? Để dành cho hôm khác đi, chú em.”

“Ý anh là sao? Chiều nay chúng ta đã mang giáp rồi mà.”

“Chú mày ngáo à? Chú định mặc cái thứ đó trong bao lâu chứ?”

“Nếu hôm nay không mặc thì em sẽ mặc khi nào?”

“Ngày mai, khi chúng ta xuất quân chứ?”

Tôi suýt thì rớt khỏi giường. Chỉ trong nháy mắt, đôi mắt tôi liếc tới chỗ tay lính đang nằm dài trên giường bên cạnh tôi. Hắn ta đang lật qua lật về một cuốn tạp chí khiêu dâm. Rồi tôi ngước lên nhìn Yonabaru.

“Ý anh là sao, mai á? Họ hoãn đợt tấn công lại à?”

“Không, làm gì có. Vẫn là ngày mai mà. Nhưng mà nhiệm vụ bí mật của chúng ta sẽ bắt đầu vào tối nay lúc mười chín giờ đúng. Chúng ta sẽ uống bất kể trời đất và tỉnh dậy vào buổi sáng với cơn buồn nôn kinh hoàng. Kế hoạch mà cả Tổng bộ cũng đừng hòng can thiệp.”

Chờ đã. Chúng ta đã đột nhập vào PX đêm hôm qua rồi mà. Tôi vẫn nhớ chi tiết mọi thứ. Tôi quá lo lắng trước trận chiến đầu tiên, nên tôi quyết định chuồn sớm. Tôi đã quay trở lại giường và bắt đầu đọc cuốn tiểu thuyết kì bí kia. Tôi thậm chí còn nhớ đã nhấc Yonabaru lên giường khi hắn ta xiêu vẹo về phòng sau bữa tiệc thác loạn cùng các cô nàng.

Trừ khi –– trừ khi chuyện đó cũng là mơ?

Yonabaru nhếch môi cười đểu. “Chú mày trông không ổn lắm nhỉ, Keiji.”

Tôi cầm cuốn tiểu thuyết ở trên giường lên. Tôi đã mua nó để đọc trong lúc rỗi, nhưng tôi đã quá bận khi luyện tập đội hình đội ngũ tới mức để mặc nó kẹt dưới đáy túi. Tôi nhớ rõ cảm giác mỉa mai khi tôi chẳng có thời gian để đọc nó tận tới ngày trước cái ngày tôi có thể sẽ chết. Tôi mở cuốn sách tại trang cuối cùng mà tôi đã đọc. Vị thám tử người Mỹ mà lại rất am hiểu về phương Đông đang thao thao về những điều tuyệt vời ở trà xanh, đúng như những gì tôi nhớ. Nếu hôm nay là ngày trước khi ra trận, vậy tôi đã đọc cuốn sách khi nào? Chẳng có gì nghe hợp lý ở đây cả.

“Nghe này. Chiến dịch ngày mai chẳng có gì đâu.”

Tôi nháy mắt. “Chẳng có gì á?”

“Cứ quay về và không bắn nhầm vào lưng ai cả, và chú sẽ ổn thôi.”

Tôi đáp lại bằng một tiếng càu nhàu.

Yonabaru xếp tay lại thành hình khẩu súng và chĩa ngón trỏ vào đầu hắn. “Anh nói thật. Cứ lo lắng quá và chú sẽ trở thành một cái bị thịt –– cuối cùng là mất thần hồn trước khi bọn chúng kịp thổi bay óc chú ra.”

Cái gã mà tôi thay thế đã trở nên mất bình tĩnh, nên họ kéo hắn ra khỏi tiền tuyến. Họ bảo hắn sẽ bắt đầu được giảng giải về chuyện nhân loại bị diệt vong như thế nào. Không phải cái loại diễn văn mà bạn muốn một gã vũ trang hạng nặng mang Chiến giáp của UDF phải lắng nghe. Chúng tôi có thể mất mát ít hơn so với những gì chúng tôi làm với kẻ thù, nhưng kể cả thế cũng chẳng hay ho tí nào. Trong trận chiến, trừ khi bạn có một cái đầu minh mẫn và một cơ thể vững vàng, nếu không bạn chỉ là một cái của nợ. Tôi chỉ vừa mới tới tiền tuyến –– chưa từng thấy bất kì đợt hành động nào –– và giờ đã bị ảo giác rồi. Ai mà biết cái đèn cảnh báo nào đang nhấp nháy trên đầu tôi chứ.

“Nói thẳng ra thì, ai mà đi ra từ chiến trường mà không vui tính một chút thì hẳn là một gã gàn dở.” Yonabaru cười đểu.

“Này, đừng có dọa lính mới chứ,” Tôi phản kháng. Thực ra tôi không sợ lắm, nhưng tôi bắt đầu càng lúc càng hoang mang.

“Cứ nhìn Ferrell đi! Chỉ có một cách duy nhất là từ bỏ sạch những gì căn bản nhất khiến chú mày là con người chứ không phải con thú. Một con người nhạy cảm và chu đáo như anh chẳng tài nào đánh đấm ra hồn được, và đó là sự thật.”

“Em chẳng thấy trung sĩ có gì không đúng cả.”

“Đây không phải vấn đề là đúng hay sai. Đây là về việc có một trái tim làm bằng vonfram và cơ bắp to tới mức chèn ép mạch máu não.”

“Làm gì tới mức ấy.”

“Rồi em lại bảo Waragarita Điên loạn là một người bình thường như bao người chúng ta đi.”

“Ừ, chà, chuyện về cô ta thì là ––“ và rồi cuộc trò chuyện tiếp tục, ba láp ba xàm như mọi khi. Màn nói xấu về Rita chỉ kết thúc khi trung sĩ xuất hiện.

Trung sĩ Ferrell Bartolome là người sống trên chiến trường nhiều hơn bất cứ ai trong tiểu đội của chúng tôi. Anh ta đã trải qua vô vàn trận chiến, hơn cả một người lính, anh ấy là chất keo kết nối mọi người lại với nhau. Họ nói nếu bạn quẳng anh ta vào máy li tâm, anh ta sẽ bị tách thành 70 phần trăm là người anh trai, 20 phần trăm là trung sĩ huấn luyện, và 10 phần trăm còn lại là carbon gia cố thép. Anh ấy cau có nhìn tôi, rồi nhìn Yonabaru, người đang vội vàng giấu cái đơn thú tội ăn trộm rượu. Vẻ cau có trên nét mặt lại càng đậm nét. “Cậu là người đột nhập vào PX à?”

“Vâng, là tôi” anh bạn của tôi thừa nhận, không chút dấu vết tội lỗi

Những gã ở những chiếc giường xung quanh chui tọt vào trong chăn với tốc độ của những co gián chạy tán loạn dưới ánh đèn hay những cuốn tạp chí khiêu dâm. Họ đều trông thấy cái nhìn trên khuôn mặt của trung sĩ.

Tôi ho khan. “Hệ thống an ninh, uh... gặp trục trặc gì sao?”

Trán Ferrell nhăn lên thành từng nếp cứ như anh ta xếp cả xấp thép quân dụng lên trên đầu vậy. Tôi cảm thấy một cơn déjà vu nghiêm trọng. Tất cả những chuyện này đều đã xảy ra trong mơ! Có thứ gì đó đã bị hỏng ngay lúc Yonabaru và đồng đội của anh ta đột nhập vào PX, mặc dù không hề liên quan. Hệ thống an ninh đã bật báo động, và những tên trộm đã bị lộ sớm hơn so với kế hoạch. “Cậu nghe chuyện đó từ đâu?”

“Chỉ là, uh, đoán bừa thôi.”

Yonabaru ló ra khỏi mép chăn. “Rắc rối gì vậy?”

“Ai đó đã đạp vào một đống cứt lợn cao tận đầu gối. Giờ có chuyện chưa dính dáng gì tới chúng mày, tuy nhiên, lúc 9:00 AM, chúng mày phải tập trung tại Sân huấn luyện #1, thiết bị cấp độ 4 để Rèn luyện Thể lực. Báo cho tất cả bọn đầu đất còn lại mà chúng mày gọi là tiểu đội luôn.”

“Anh đùa à! Mai bọn em sẽ ra chiến trường, và giờ anh định đẩy bọn em đi tập thể hình?”

“Đó là lệnh, Hạ sĩ.”

“Thưa ngài, trình diện tại Sân huấn luyện #1 vào lúc 9:00 AM chỗ trang thiết bị cấp 4, rõ! Nhưng, uh, Trung sĩ này. Chúng ta đã ăn trộm rượu nhiều năm rồi. Tại sao lần này họ lại làm căng vậy?”

“Mày thật sự muốn biết?” Ferrell đảo mắt. Tôi nuốt một ngụm nước bọt.

“Nah, em đã biết câu trả lời rồi.” Yonabaru mỉm cười. Hắn ta trông lúc nào cũng cười cười cợt cợt. “Đó là vì chuỗi mệnh lệnh (hệ thống mệnh lệnh cấp trên truyền xuống cấp dưới, cấp dưới lại truyền xuống cấp dưới nữa, không phải chỉ đạo trực tiếp) ở đây đã điên hết rồi chứ gì.”

“Mày sẽ tự biết ngay thôi.”

“Chờ đã, trung sĩ!”

Ferrell sải ba bước rồi dừng lại.

“Coi nào, gợi ý chút đi!” Yonabaru trốn sau tấm chăn ở cái giường kim loại và xếp lại mớ đơn tự thú.

“Thống lĩnh là người xử lý những cái lời biện hộ thối nát về vấn đề an ninh của chúng ta tại căn cứ này, nên đừng có nhìn anh, và cũng đừng nhìn đội trưởng nốt. Thực ra, chúng mày cũng nên ngậm mồm lại và làm hết những gì được bảo đi.”

Tôi thở dài. “Anh ta sẽ không để chúng ta ra ngoài kia đan rổ chứ?”

Yonabaru lắc đầu. “Có khi chúng ta có thể làm một quả ôm tập thể. Cái đcm.”

Tôi biết chuyện này sẽ kết thúc ra sao. Tôi cũng đã mơ về chuyện này.

Sau thất bại của họ vào một năm rưỡi trước tại Trận chiến ở Bờ biển Okinawa, Hội đồng Nhật Bản coi đó là vấn đề danh dự khi đoạt lại một hòn đảo con con nhô ra trên bờ biển tại Boso Peninsula, một nơi tên là Kotoiushi. Với vị thế vững chắc tại đó, những con Mimic chỉ là một hòn đá ném từ Tokyo. Hoàng Cung và chính phủ rút lui và chỉ huy từ Nagano, nhưng khó mà xây dựng lại được bộ máy kinh tế từng là thành phố lớn nhất Nhật Bản.

Bộ quốc phòng biết rằng tương lai của Nhật Bản phụ thuộc vào kết quả của chiến dịch này, nên nhằm tập trung hai mươi lăm ngàn Chiến giáp, một đống tướng lĩnh đã được gửi tới cái căn cứ bé tẹo trên Chiến Tuyến Flower dẫn tới Boso Peninsula này. Họ thậm chí còn quyết định cho phép người Mỹ, những Biệt đội Đặc nhiệm, tham gia vào cuộc chơi này; những gã U.S. chưa từng được mời gia nhập vào bữa tiệc tại Okinawa này trước kia đâu.

Những gã người Mỹ rõ ràng chẳng quan tâm cái vẹo gì tới chuyện Tokyo bị biến thành một bãi hoang tàn, nhưng để một khu công nghiệp chịu trách nhiệm sản xuất ra những tấm giáp hợp kim nhẹ nhất, kiên cố nhất rơi vào tay Mimic thì không thể chấp nhận được. Bảy mươi phần trăm bộ phận của một Chiến giáp đỉnh-của-đỉnh đến từ Trung Quốc, nhưng những bộ giáp vẫn không thể thiếu công nghệ đến từ Nhật Bản. Nên thuyết phục người Mỹ tới cũng chẳng khó khăn gì.

Vụ bắt bớ là do lũ ngoại lai kia tới thắt chặt công tác an ninh. Đột nhiên có mấy đợt kiểm tra những thứ như rượu thâm hụt mà trước đây căn cứ đề mắt nhắm mắt mở cho qua. Khi lũ vô liêm sỉ kia biết được chuyện gì đang diễn ra, chúng liền trợn mắt há mồm.

“Thế cũng gọi là cầu may á? Tao tự hỏi thằng nào bị bắt.”

“Không phải chúng ta. Ta biết lũ người Mỹ giờ đang coi chừng mấy binh đoàn quý giá của chúng như diều hâu ấy. Chúng ta đã cẩn thận như xử nữ vào buổi tiệc tối mà.”

Yonabaru bỗng rên rỉ. “Ungh, bụng của tôi ... Trung sĩ! Bụng của em đột nhiên đau quặn! Em nghĩ là do đau ruột thừa. Hoặc có thể em bị uốn ván cái lúc em bị thương khi luyện tập. Ừ, hẳn là vậy!”

“Tao đoán nó sẽ hết trước tối mai, nên nhớ đừng để bị khát đấy. Mai sẽ hết thôi, nghe không?”

“Ôi trời. Đau quá.”

“Kiriya. Đảm bảo cho hắn ta uống nước.”

“Rõ.”

Mặc kệ màn biểu diễn của Yonabaru, Ferrell đi ra khỏi chòi. Ngay khi khán giả đi ra, Yonabaru đứng dậy và tạo một cử chỉ hết sức thô lỗ về phía cửa. “Hắn ta cứ như bị con gì cắn vào mông ấy. Không bao giờ hiểu được một câu nói đùa nếu mà đếch có một cái bảng hướng dẫn. Khi về già anh sẽ không bao giờ thành ra như vậy, đúng chứ?”

“Em đoán vậy.”

“Fuck, fuck, fuck. Ngày hôm nay coi như ra bã rồi.”

Mọi chuyện diễn ra đúng như những gì tôi nhớ.

Đội #17 dành ba giờ để tập thể lực. Kiệt sức, chúng tôi lại nghe mấy gã chỉ huy quân sự lải nhải, ngực lỉnh kỉnh những huy chương, giảng giải nửa tiếng trước khi được cho lui. Tôi vẫn nghe văng vẳng trong tai tiếng hắn ta đe dọa vặt hết lông đít của chúng tôi từng thằng một bằng những ngón tay được gia cố trong Chiến giáp.

Giấc mơ của tôi y hệt như vậy, khác thì có chăng chỉ là thời gian.


3[]

Có một bài tập gọi là chống đẩy tổng hợp. Bạn đẩy người lên như chống đẩy bình thường, rồi giữ nguyên tư thế đó.

Nghe thì chẳng có gì ghê gớm nhưng thực ra lại không. Bạn có thể cảm thấy đôi tay và từng sợi cơ run rẩy, và cuối cùng mất hết khái niệm về thời gian. Sau khi đếm con cừu thứ một nghìn nhảy qua hàng rào, bạn sẽ ước gì mình có thể chống đẩy một cách thông thường, cái gì cũng được trừ cái này. Tay của bạn sinh ra không phải để làm cái cột nhà. Xương khớp và cơ bắp sinh ra là để co và duỗi. Co và duỗi. Nghĩ thì có vẻ hay đấy. Nhưng bạn không được nghĩ về nó, nếu không bạn sẽ chỉ cảm thấy tồi tệ hơn mà thôi. Mày là cột nhà, nghe chứ? Cột nhà! Cột nhà vững chãi.

Cơ bắp không quá quan trọng đối với lính Chiến giáp. Dù cho lực nắm tay của anh là ba mươi hay bảy mươi kí, chỉ cần anh khoác chiến giáp lên, lòng bàn tay anh sẽ hàm ẩn lực nắm 370 kilo. Thứ một lính Chiến giáp cần là sự bền bỉ và khả năng điều khiển ­­–– năng lực để giữ nguyên tại một vị trí mà không nhúc nhích một bắp cơ.

Chống đẩy tổng hợp sinh ra chỉ để nhằm mục đích đó. Bài tập ngồi tựa tường cũng là một bài tập không tồi.

Có người đã tuyên bố chống đẩy tổng hợp đã trở thành một hình thức kỷ luật trá hình trong Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản cũ sau khi họ loại bỏ các loại trừng phạt nhục hình. Tôi khó lòng mà tin nổi cái bài tập đó đã tồn tại từ đó đến giờ để được Đơn vị Bộ binh Vũ trang –– đơn vị quân đội Nhật Bản tham gia Liên Minh từ khi tôi còn chưa sinh ra chọn làm bài tập. Nhưng dù ai nghĩ ra cái trò này đi nữa thì tôi cũng hy vọng hắn ta sẽ chết từ từ trong đau đớn.

***


“Chín mươi tám!”

“CHÍN MƯƠI TÁM!” chúng tôi đồng thanh hét lên.

“Chín mươi chín!”

“CHÍN MƯƠI CHÍN!”

Nhìn xuống sàn nhà, chúng tôi đếm thời gian trong tuyệt vọng cùng trung sĩ huấn luyện, mồ hôi chảy tận vào trong mắt.

“Tám trăm!”

“TÁM TRĂM!”

Chết TIỆT!

Bóng của chúng tôi in rõ trên nền đất dưới ánh mặt trời chói chang. Lá cờ của đại đội tung bay cao trên sân. Cơn gió cuốn qua sân tập kéo theo cả cát vụi và kết dính lại thành một lớp sền sệt mằn mặn trên da.

Ở đây, bất động giữa cái sân tập to khủng bố kia, 141 con người từ Đại đội #17 của Đơn vị Bộ binh Vũ trang nằm đó tập chống đẩy tổng hợp. Ba tiểu đội trưởng thì đứng đó, cũng bất động y hệt lính của họ, mỗi người đứng trước một tiểu đội. Đội trưởng của chúng tôi quan sát toàn bộ quang cảnh với vẻ cau có rõ rệt dưới bóng râm của lều doanh trại. Ngồi bên cạnh ông ta là một lữ đoàn trưởng từ Văn phòng Tổng tham mưu. Vị tướng đã mở miệng ra và bắt đầu cái trò khôi hài này hẳn đang nhấm nháp từng ngụm trà xanh bên trong văn phòng với điều hòa máy lạnh. Đồ đĩ đực.

Một vị tướng là một tồn tại từ cao xa trên thiên đường. Một tồn tại ngồi chổm hổm trên ngai vàng xa hoa, cao hơn tôi, cao hơn Yonabaru, cao hơn Ferrell, cao hơn trung úy chịu trách nhiệm về tiểu đội của chúng tôi, cao hơn đội trưởng phụ trách đại đội của chúng tôi, hơn đại tá phụ trách tiểu đoàn này; cao hơn đại tá phụ trách trung đoàn, thậm chí còn cao hơn cả chỉ huy trưởng của căn cứ. Những vị tướng là những vị thần ngự trị phòng tuyến Flower và đều được huấn luyện, ăn ngủ và nghỉ bên trong những bức tường của nó. Quá cao, họ quá xa cách và siêu thực.

Những vị tướng không ăn trộm rượu. Họ đi ngủ sớm, thức dậy sớm, luôn đánh răng sau khi ăn, không bao giờ quên cạo râu vào buổi sáng. Những vị tướng tiến vào trận chiến sinh tử với cái cằm vươn cao, bình tĩnh đến không tưởng. Chết tiệt, tất cả những gì họ phải làm là trốn trong Nagano thiết lập những kế hoạch tác chiến. Một mệnh lệnh từ họ và chúng tôi, những người chết la liệt tại tiền tuyến phải hành động như những con tốt trên bàn cờ theo cái vận mệnh đáng ghê tởm. Tôi ước gì có thể thấy dù chỉ một gã trong bọn họ ngụm lặn dưới bùn cùng chúng tôi tại đây. Ở dưới này chúng tôi có luật lệ riêng. Đấy hẳn cũng là lý do họ tránh xa chỗ này. Mẹ kiếp, nếu một gã mà ló mặt ra, tôi sẽ cho hắn ăn một viên kẹo đồng, tiễn hắn lên bảng đếm số. Đây chỉ là một trong những suy nghĩ chết tiệt nảy ra trong đầu tôi, bất cứ cái nào trong đó cũng đủ để đưa tôi lên giàn hỏa thiêu.

Cái gã thượng cấp ngồi trong lều kia không phải là khán giả duy nhất quan sát màn khổ hình của chúng tôi.

Những tên trong Đại đội #4 hẳn đang cười sặc sụa. Ngày trước chúng tôi thắng bọn hắn tận hơn ba mươi điểm trong trận đấu bóng bầu dục nội bộ, nên tôi đoán chúng coi đây là một kiểu trả đũa. Chỗ rượu mà chúng tôi trộm được cũng chia cho cả chúng nữa, vậy nên cái hình ảnh giàu tinh thần đoàn kết cảm động rưng rức lòng người là đây. Rặt một lũ chó đẻ. Nếu chẳng may chúng gặp rắc rối tại Kotoiushi, đừng có hòng mà chờ tôi lại giúp đỡ chúng.

Biệt đội đặc nhiệm Hoa Kỳ cùng vài nhà báo dính cứng trong đơn vị của họ đã tập trung trên sân để quan sát chúng tôi từ một khoảng cách an toàn. Có lẽ họ không tập bài tập chống đẩy tổng hợp tại quê nhà, nhưng dù là lý do gì thì bọn họ cũng đang chĩa những ngón tay ú na ú nần về phía chúng tôi và cười to. Những cơn gió biển đưa tiếng nói của họ vang xa và phả vào tai chúng tôi. Dù tại khoảng cách xa ngần này, những lời nhạo báng kia vẫn oang oang và chát chúa. Những ngón tay trượt kin kít trên một tấm bảng. Ồ, khoan đã. Đó là máy ảnh phải không? Hắn ta thật sự định chụp ảnh à? Được rồi, mẹ kiếp chúng mày. Mày sẽ là thằng tiếp theo tao cho lên bảng đếm số.

Đau đớn và mệt mỏi hành hạ thân xác tôi. Máu như lưu chuyển chậm lại.

Trò này đã cũ rồi. Tính cả trong cái giấc mơ kia, đây là lần thứ hai tôi trải qua cái kỳ luyện tập thể hình này. Mà không chỉ là tập thể hình, là chống đẩy tổng hợp. Trong kỳ huấn luyện họ dạy chúng tôi rằng kể cả khi bạn phải chịu những cơn đau quằn quại –– đặc biệt khi bạn đang đau ­­–– điều tốt nhất nên làm là tự đánh lạc hướng bản thân, cố kiếm thứ gì đó để mà chú ý ngoài những cơn đau bỏng cháy trong cơ bắp và những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. Cẩn thận không khiến đầu cựa quậy, tôi nhìn về một góc qua khóe mắt.

Tên nhà báo người Mỹ đang chụp ảnh một tay lính, tấm thẻ thông hành cho khách tham quan lủng lẳng treo trên cổ. Cười lên nào! Hắn ta là một gã đồng hương với thân hình rắn rỏi. Bạn có thể xếp hắn cùng bất kỳ tên nào trong Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ và bạn đừng hòng tìm ra điểm khác nhau. Hắn ta trông thoải mái khi ở trên chiến trường hơn tôi nhiều, chắc chắn là vậy.

Cảm nhận của tôi đối với bọn Lực lượng Đặc nhiệm kia cũng giống như đối với Trung sĩ Ferrell vậy. Đau đớn và thống khổ đã trở thành ông bạn già của những người đàn ông như họ. Họ bước tới trước mặt hiểm nguy, mỉm cười, và hỏi hắn tại sao lại tới muộn vậy. Họ đều thuộc vào loại khác hẳn với một gã lính mới như tôi.

Giữa màn phô bày hormoone sinh dục nam này, một người phụ nữ cô đơn lọt thỏm vào cứ như cái gai trong mắt vậy. Cô ta chỉ là một cô bé hạt tiêu đứng cách xa những người còn lại trong đơn vị. Cảnh cô ấy đứng bên cạnh những gã đồng đội ngoại cỡ kia trông thật là kỳ quặc.

Anne tóc đỏ dưới mái nhà Bạch dương Tới chiến trường.

Tôi đoán cuốn sách hẳn là một bản spin-off trong khoảng Thế chiến I. Quân Mông Cổ ùa vào cướp đoạt ruộng đất, và Anne ở đó, khẩu súng máy khéo léo rúc sau một cánh tay. Mái tóc của cô ấy rực một màu sắt gỉ, nhàn nhạt tựa như màu đỏ mờ. Mái đầu đỏ gợi thường nên những hình ảnh về máu, lửa cùng tấm lòng quả cảm. Nhưng không phải cô ta. Nếu không khoác lên mình chiếc áo sơ mi màu cát kia thì cô ta sẽ trông như một đứa trẻ đi tới căn cứ trong một chuyến tham quan và bị lạc.

Những người khác xun xoe bên cạnh cô gái đó, cô gái chỉ đứng tới ngực họ và trông như những gã nông dân thấp hèn trố mắt ra nhìn dân quý tộc.

Đột nhiên tôi nhớ ra. Đó là Rita!

Hẳn là cô ấy. Đây là cách duy nhất để giải thích làm sao mà người phụ nữ này, người chỉ có thể trông giống lính Chiến giáp nếu khoác lên mình cái váy đầm xòe lại ở trong đại đội đặc nhiệm. Hầu hết phụ nữ mặc quân phục vào trông y hệt một sinh vật lai tạp giữa một con khỉ đột và một con khỉ đột xấu xí hơn. Họ là những người duy nhất có thể ra chiến trường dưới lá cờ Bộ binh Vũ trang.

Rita Vrataski là người lính nổi tiếng nhất thế giới. Cái hồi tôi đăng kí vào UDF, bạn đừng hòng mà tìm được một ngày nào mà không phải nhìn những tin tức mới ngợi ca cô ta. Những câu chuyện giật tít “Một Đặc công Huyền thoại,” “Valkyrie Tái thế,” kiểu kiểu thế. Tôi thậm chí còn nghe được Hollywood đang định làm phim về cô ta, nhưng tới lúc nó ra lò thì tôi đã vào UDF rồi, nên tôi chẳng được xem.

Phải đến phân nửa số Mimic mà con người giết được được tính quân công cho đội của cô ấy. Chưa tới ba năm, họ đã tàn sát số Mimics bằng cả UDF gom lại trong hai mươi năm trước đó. Rita là vị cứu tinh hạ phàm để làm thay đổi cục diện trong chuỗi những thất bại không có hồi kết này.

Ài, đó là những gì họ nói.

Chúng tôi đều hiểu được cô ấy là một phần trong đội tuyên truyền mà họ dùng để xâm nhập vào lãnh địa của kẻ thù. Một cái vỏ ngoài hào nhoáng của một vũ khí bí mật hay một chiến lược mới. Sáu mươi phần trăm binh lính là đàn ông. Tỉ lệ đó lên đến 85% khi bạn tính tới những người lính Chiến giáp đổ máu nơi tiền tuyến. Sau hai mươi năm chiến đấu với kẻ thù mà chúng ta vẫn hoàn toàn mù tịt, càng ngày càng bị xâm lược sâu hơn, chúng ta không cần một vị cứu tinh mình đầy cơ bắp, miệng kêu ủn ỉn, người đầy mồ hôi, não bị thay thành bánh hamburger như bọn tôi nữa. Ừ, nếu để tôi phụ trách cái Văn phòng Tổng tham mưu kia, tôi cũng sẽ chọn phụ nữ.

Đội đặc nhiệm Hoa Kỳ kia dàn quân ở đâu thì sĩ khí nơi đó được đẩy lên cao vút. UDF đã bị đẩy tới bờ vực thẳm, nhưng cuối cùng họ cũng bắt đầu từng bước phản công. Sau khi kết thúc trận chiến tại Bắc Mỹ, họ đi tới Châu Âu và rồi Bắc Phi. Giờ họ tới Nhật Bản, nơi kẻ thù đang gõ cửa hòn đảo Honshu.

***

Những người Mỹ gọi Rita là Full Metal Bitch, hay thỉnh thoảng rút gọn là Queen Bitch. Khi không có ai nghe được, họ gọi cô ta là Wargarita Điên loạn.

Chiến giáp của Rita đỏ rực như mặt trời ban mai. Cô ta bắt mấy tay mặc áo blouse trắng trong phòng thí nghiệm làm việc liên tục vài tháng không nghỉ để điều chế lớp sơn polymer cho Chiến giáp để hấp thụ tối đa lượng sóng radar có thể. Bộ giáp của cô ta làm từ thép súng đỏ chót –– không, trên cả thế, nó tỏa sáng rực rỡ. Trong bóng đêm, nó phản chiếu những tia sáng le lói mờ nhạt nhất, âm ỉ một màu đỏ rực. Cô ta điên chăng? Chắc là vậy.

Sau lưng cô ta người ta kháo nhau rằng bộ giáp kia được cô ta sơn bằng máu của đồng đội. Khi bạn nổi bật như vậy trên chiến trường, bạn chắc chắn sẽ thu hút nhiều hỏa lực của quân thù hơn. Người khác lại nói cô ta sẵn sàng không từ thủ đoạn để khiến đội của mình nổi bật hơn, thậm chí có lần cô ta còn gỡ tấm bảo vệ đằng sau một tay đồng đội. Nếu cô ta bị đau đầu, cô ta sẽ trở nên điên loạn, tàn sát không phân biệt địch ta. Và đến nay chưa từng có một kẻ địch nào khiến Chiến giáp của cô ta xây xước. Cô ta có thể đi xuống địa ngục và bước ra mà không một vết trầy. Có cả tỷ câu chuyện về cô ta.

Những người lính trong quân hóa ra lại có cả mớ thời gian rảnh, và lắng nghe những buổi chém gió như vậy, truyền tai nhau, thêm thắt vào –– đó chỉ đơn giản là một cách để họ giết thời gian và né tránh chủ đề về những người đồng đội đã khuất. Rita đã trở thành người lính Chiến giáp cùng ăn cùng ngủ trong cùng căn cứ với tôi, nhưng đến giờ tôi mới được thấy mặt cô ta. Chúng tôi có thể phật ý trước sự đối đãi đặc biệt mà cô ta được hưởng nếu chúng tôi rảnh.

Tôi không thể nào rời mắt khỏi mái tóc của cô ta –– mái tóc ngắn đung đưa trong gió. Cô ta có một vẻ ngoài rất cân đối. Bạn thậm chí có thể nói rằng cô ta xinh đẹp. Cô ta có cái mũi cao gầy, một cái cằm nhọn. Cái cổ ấy dài và trắng ngần, trong khi hầu hết lính Chiến giáp chả mấy ai có cổ. Ngực của cô ta, ai dà, lại phẳng như tàu sân bay, đối lập hẳn với tranh ảnh những người phụ nữ da trắng mà bạn có thể thấy trên tường của bất kỳ chòi lính nào. Không phải nó làm tôi khó chịu hay gì đâu nhé.

Ai mà nhìn cô ta mà nghĩ tới cái biệt danh Full Metal Bitch kia cần phải đi khám lại cái đầu. Cô ta trông giống một con cún con hơn là một con bitch. Tôi đoán trong một ổ chó pitbull hung tợn hẳn là vẫn có chỗ cho một con chó ngoan ngoãn hiền lành.

Nếu trong giấc mơ của tôi, vỏ chiếc Chiến giáp đỏ rực kia được mở ra và cô ta nhảy ra, có lẽ tôi sẽ ỉa đùn ra giường mất. Tôi đã từng thấy khuôn mặt và chiếc Chiến giáp của cô ta nhiều lần trên bảng tin rồi, nhưng chúng sẽ không tài nào khiến bạn hình dung nổi ngoài đời thực cô ta trông ra sao. Tôi luôn tưởng tượng Rita Vratski là người cao to và tàn nhẫn, với một cơ thể nổi bật cùng khí chất tự tin mười phần.

Rồi mắt chúng tôi chạm nhau.

Ngay lập tức tôi liếc sang chỗ khác, nhưng đã quá muộn. Cô ta bắt đầu đi lại chỗ tôi. Cô ta cố tình đi tới, chân này đáp xuống đất thì chân kia mới nhấc lên –– một sức ép tàn khốc và không thể ngưng lại. Nhưng những bước chân của cô ta lại quá nhỏ, kết quả cuối cùng lại thành ra một giáng đi trông rất vụng về. Chẳng biết tôi đã từng nhìn thấy ai đi như vậy hay chưa.

Coi nào, đừng đối xử vậy với tao. Tao thậm chí còn không thể di chuyển. Cho bọn này nghỉ ngơi một tí và cút đi dùm được không? Nào. Đi đi!

Rita dừng lại.

Những bắp cơ trong tay tôi bắt đầu run rẩy. Rồi đầy ngụ ý, cô ta đi ra. Hình như cô ta nghe thấy lời cầu nguyện của tôi, quay chín mươi độ ngay trước mặt tôi và đi tới chỗ lữ đoàn trưởng đang ngồi ở dưới mái lều. Cô ta vươn tay chào một cách hời hợt. Không ẻo lả đến mức bị chỉ trích, nhưng cũng chẳng nghiêm nghị đủ để nghe thấy tiếng crắc trong xương. Một tư thế chào rất phù hợp với Full Metal Bitch.

Chỉ huy trưởng nhìn Rita bằng ánh mắt đầy ngờ vực. Rita là một thượng sĩ. Trong phân tầng giai cấp quân đội, sự chênh lệnh giữa chỉ huy trưởng cấp tướng và một thượng sĩ cũng na ná như sự khác biệt giữa một bữa ăn bốn món tại một nhà hàng hạng hai và một bữa tiệc buffet ăn-bao-nhiêu-tùy-thích. Những tay lính mới như tôi thì là đồ ăn nhanh, đi kèm cùng mấy miếng khoai tây chiên cỡ bự. Nhưng chuyện không chỉ đơn giản là vậy. Chưa bao giờ là vậy. Rita thuộc quân đội Hoa Kỳ, là mấu chốt trong chiến dịch sắp tới, và là một trong những người lính quan trọng nhất trên hành tinh. Thứ hạng là một chuyện, khó mà nói được ai trong bọn họ nắm nhiều quyền lực hơn.

Rita đứng nghiêm. Chỉ huy trưởng mở miệng trước.

“Sao, sĩ quan?”

“Thưa ngài, có thể cho tôi tham gia tập thể hình không.”

Chất giọng cao vút y hệt như trong giấc mơ kia, ném ra một quả bom cỡ bự.

“Ngày mai cô phải tham gia chiến dịch.”

“Họ cũng vậy, thưa ngài. Đội của chúng tôi chưa từng tập qua bài tập này, thưa ngài. Tôi tin rằng sự tham gia của tôi sẽ là yếu tố quyết định tới thành công trong phối hợp và chấp hành nhiệm vụ ngày mai.”

Tướng quân cứng họng không nói nên lời. Bọn Đặc nhiệm Hoa Kỳ quanh sân bắt đầu hò reo và cổ vũ.

“Xin cho phép tham gia buổi luyện tập, thưa ngài,” cô ta nói.

“Chấp thuận.

“Cảm ơn, thưa ngài!”

Cô ta nhanh chóng hành lễ. Quay ngoắt 180 độ, cô ta chen vào trong đàn đực rựa xếp hàng nằm bất động ngắm đất mẹ hiền từ.

Cô ta chọn một chỗ bên cạnh tôi và bắt đầu bài chống đẩy tổng hợp. Tôi có thể thấy hơi ấm phả ra từ cơ thể cô ta trong bầu không khí se se lạnh giữa chúng tôi.

Tôi không nhúc nhích. Rita không nhúc nhích. Mặt trời leo cao, nắng vàng rực rỡ từ từ và chậm rãi thiêu đốt da thịt chúng tôi. Một giọt mồ hôi đọng lại trong khe nách của tôi, rồi nó từ từ chảy dài xuống đất. Mồ hôi cũng bắt đầu đọng trên da của Rita. Fuck! Tôi cảm giác mình như một con gà thường bị nhét lò chung với một con gà tây.

Đôi môi của Rita phảng phất cử động. Một tiếng nói lí nhí vang lên.

“Trên mặt tôi có cái gì à?”

“Cái gì?”

“Anh nhìn chằm chằm vào tôi nãy giờ rồi.”

“Tôi á? Làm gì có.”

“Tôi cảm giác cứ như cả chùm tia laser chĩa vào trán.”

“Xin lỗi. Chẳng có –– không có gì.”

“Ồ. Được rồi.”

“Thằng-đầu-tôm Kiriya! Mày đang trượt tay kìa!” trung úy bắt đầu sủa. Tôi nhanh chóng sửa lại tay cho đúng tư thế. Bên cạnh tôi, Rita Vrataski, với vẻ bất cần của người chưa từng có nhu cầu giao tiếp trong suốt cuộc đời, tiếp tục bài chống đẩy tổng hợp.

Buổi tập thể hình kết thúc sau chưa đầy một tiếng. Tướng quân quay trở lại doanh trại mà không đưa ra thêm chỉ thị gì. Đại đội #17 dành một buổi chiều tham gia lao động trước trận chiến.

Mọi chuyện không diễn ra theo những gì tôi nhớ. Trong giấc mơ, tôi chưa từng mắt đối mắt với Rita, và cô ta không tham gia buổi tập thể lực. Có lẽ tôi quá để ý tiểu tiết, nhưng cô ta làm vậy hẳn là chỉ để trêu gã tướng quân. Chỉ có một Valkyrie tái thế mới có thể phá thối buổi huấn luyện với quân kỷ nghiêm ngặt và an toàn thoát nạn. Mặt khác, có thể chỉ là do cái ăng ten của cô ta tự dưng bắt đúng tần số cái món chống đẩy tổng hợp kỳ quặc này, không hiểu nó là cái gì. Có lẽ cô ta chỉ tò mò thôi.

Nhưng dù vậy vẫn phải nói, Rita Vrataski chắc chắn không phải là một con bitch mà mọi người dèm pha.


4[]

“Đêm qua thế nào hử? Ả đó khít thật.”

“Mày nói đấy nhé.”

“Phản ứng như vậy thì ắt hẳn cô ta phải dấu lò xo bên trong cái cơ thể nhỏ nhắn kia. Khoái cảm nó lan tận vào trong cơ bắp tao.”

“Cô ta nghe thấy kìa, cẩn thận đấy.”

“Ai mà không thích được khen ngợi chứ? Anh mày chỉ nói rằng cô ta rất tuyệt vời mà.” Vừa nói Yonabaru vừa đẩy hông lên.

Nhìn thấy cảnh một người cử động như vậy bên trong Chiến giáp thì quả thực là buồn cười vãi chưởng. Cái động tác bình thường như vậy đó nhưng lại ẩn chứa sức mạnh đủ để nâng cả một ngôi nhà lên đấy.

Đội của chúng tôi đang ở mũi phía bắc của Đảo Kotoiushi, chờ cuộc đột kích nổ ra, Chiến giáp thì trong sleep mode. Một màn hình cao khoảng nửa mét ở ngay phía trước mặt chúng tôi, truyền về hình ảnh địa hình phía sau. Đây là cái mà họ gọi là ngụy trang động. Nó khiến chúng tôi ẩn nấp tránh bị phát hiện trước trinh sát của quân thù. Tất nhiên là chúng tôi có thể dùng tranh vẽ. Địa hình đã bị bom oanh tạc đến mức chả còn gì, nên dù bạn nhìn từ hướng nào thì bạn cũng chỉ nhìn thấy những vùng đất hoang chỉ còn tro tàn thôi.

Phần lớn thời gian lũ Mimic trốn sâu trong những hang động ngoằn ngoèo sâu dưới đáy biển. Trước khi một vùng đất bị tấn công, chúng tôi quăng cả kho bộc phá đâm sâu xuống lòng đất trước khi nổ. Ăn đi. Tiền bán mỗi quả bom kia đủ để tôi sống dư dả cả đời mà còn dư cả tiền gửi tiết kiệm. Nhưng lũ Mimic không hiểu sao vẫn có cách để tránh thoát chỗ bom. Kỳ diệu tới mức bạn phải nghi ngờ không biết chúng có sao chép được bản kế hoạch tác chiến của chúng tôi không nữa. Trên lý thuyết thì chúng tôi có ưu thế trên không, nhưng rút cục thì chúng tôi vẫn bị kéo xuống đất đánh nhau.

Vì tiểu đội của tôi là một phần của đội phục kích, chúng tôi không được trang bị những khẩu pháo nòng cỡ bự –– thứ vũ khí đồ sộ to bằng cả một chiếc xe ô tô cỡ nhỏ được lắp ráp hoàn chỉnh. Cái chúng tôi có chỉ là những khẩu súng trường 20mm, lựu đạn khí gas, khoan phản lực và ống phóng rocket có ba quả đạn. Vì đây là tiểu đội của Ferrell nên chúng tôi đều kết nối liên lạc với anh ấy. Tôi nhìn màn hình trên đầu Chiến giáp của tôi. Nhiệt độ lúc này là 28 độ C. Áp suất lúc này là 1014 Millibar. Lực lượng chủ lực sẽ xuất kích bất kì lúc nào.

Tối hôm qua, sau cả tiếng tưởng như bất tận trong buổi tập thể hình, tôi quyết định tham dự bữa tiệc. Không phải là do trong mơ tôi không tham gia, mà là vì tôi không muốn có cảm giác đọc lại cuốn sách kia. Cái đoạn giúp Yonabaru lên giường sau khi vấp té trên đường về doanh trại thì vẫn thế.

Nghe đồn bạn gái của Yonabaru cũng là lính Chiến giáp. Do ngoại lệ của Lực lượng Đặc nhiệm, đàn ông và phụ nữ chiến đấu trong những tiểu đội khác nhau, nên chúng tôi khó mà gặp được cô ta trên chiến trường.

“Nếu –– và chỉ nếu thôi nhé –– một trong số mọi người bị giết ...” Tôi đánh bạo phát biểu.

“Nói như cứt.”

“Nhưng dù sao các anh vẫn được gặp nhau mà.”

“Thiên đường không giống như cái ngân hàng Thụy Sĩ. Chú mày không thể lén tích góp tiền vào trong tài khoản bí mật nào đó rồi trông chờ được rút tiền ra. Chú mày phải làm hết những việc có thể trước khi tới chiến trường. Đó là luật đầu tiên của một người lính.”

“Ờ, chắc vậy.”

“Nhưng anh bảo chú mày nè, chú mày phải đi kiếm một con ả nào mà chơi đi. Carpe diem (thành ngữ Latin – Sống cho ngày hôm nay), chú em.”

“Ai bây giờ chứ.”

“Wargarita Điên loạn thì sao? Hai người trò chuyện trong lúc tập thể hình đúng không? Tóm lấy ả đi, anh biết chú mày sẽ làm được mà.”

“Ai mà dám chứ.”

“Những cô gái nhỏ nhắn như cô ta –– anh dám chắc rằng cô ta sẽ trở thành một ả Michigan quyến rũ trên giường. Họ càng nhỏ nhắn bao nhiêu, làm tình càng tuyệt vời bấy nhiêu, chú mày biết đấy.”

“Kính trọng họ chút đi.”

“Tình dục chẳng liên quan gì tới kính trọng cả. Từ gã hậu cần thấp kém nhất tới Đại tướng quân, mọi người đều muốn thụt ra thụt vô giữa hai chân. Ý anh nói rằng đây là cách chúng ta tiến hóa ––“

“Im mẹ mồm anh lại đi,” Tôi nói.

“Chú mày nói với anh như vậy trước mặt trung sĩ à? Anh mày bị tổn thương đấy. Anh là người có tâm hồn nhạy cảm. Anh chỉ nói lảm nhảm để đầu óc thoải mái thôi mà. Y hệt mọi người ấy.”

“Cậu ta nói đúng đấy,” ai đó chen vào trong hệ thống liên lạc nói.

“Này, không ai ủng hộ tôi à?”

Cứ như thể đây là câu mà mọi người trong đội chờ đã lâu. Mọi người đồng thanh nói.

“Tôi bỏ phiếu cho Yonabaru.”

“Tao phải lập trình lại để chặn mấy câu chuyện cười nhạt nhẽo của mày đấy, nên đừng có lãng phí hơi thở nữa.”

“Nghe có vẻ như Kiriya sẽ phải luyện tập thêm vào chứ không lại bị Yonabaru trêu cho thối mồm đấy.”

“Thưa ngài! Tôi nghĩ tôi phải khởi động lại Chiến giáp! Tôi không muốn đang giữa chiến trường thì nó bị hỏng!”

“Ôi trời, thèm thuốc quá. Chắc là mình bỏ quên bên con Chiến giáp kia rồi.”

“Tao tưởng mày bỏ thuốc rồi?”

“Ê, nói bé thôi! Tao đang cố ngủ nè!”

Và cứ như vậy. Ào ạt tràn vào trên hệ thống liên lạc, cứ như phòng chat Internet vậy. Tất cả những gì Ferrell có thể làm là thở dài và lắc đầu cái Chiến giáp.

Khi bạn quá lo lắng đến mức chẳng còn móng tay để mà cắn thì nghĩ về những thứ bạn thích sẽ giúp làm giảm áp lực. Họ cũng dạy về điều đó trong kỳ huấn luyện. Tất nhiên, khi cả sở thú tụ họp như thế này, thứ duy nhất họ nghĩ tới chỉ có thể là tình dục. Tôi chỉ nhớ tới một cô gái duy nhất, cô nàng thủ thư nhỏ nhắn đáng yêu mà giờ tôi cũng chẳng còn nhớ mặt. Ai mà biết cô ấy giờ ra sao. Cô ấy đã kết hôn cũng được nửa năm rồi. Giờ cô ấy hẳn đã có thai. Tôi nhập ngũ ngay sau khi tốt nghiệp cấp ba, sau lúc cô ấy làm trái tim tôi tan nát. Tôi không nghĩ hai chuyện này có liên quan. Ai mà biết?

Tôi đã đăng ký nhập ngũ và nghĩ mình có thể làm chút gì đó có ý nghĩa bằng cách đặt cược mạng sống trên chiến trường và xem xem định mệnh sẽ dẫn tôi đi đâu. Nói đúng ra cuộc đời của tôi còn chả đáng giá bằng mấy quả bomb đắt như tinh kia, và định mệnh thì cứ trồi lên trụt xuống như biểu đồ chứng khoán.

“Chết tiệt. Nếu chúng ta không định đào hào thì ít nhất cũng để cho chúng ta ngồi chứ?”

“Nếu đào hào thì sẽ không trốn được.”

“Cái tấm màn ngụy trang động này như cứt ấy. Mà ai mà biết chúng nhìn tinh hơn chúng ta hay không? Chúng tuy không thể nhìn thấy máy bay chiến đấu phe ta nhưng chúng vẫn có thể bắn hạ khiến máy bay rơi lả tả như lá vàng trước gió đấy thôi.”

“Nếu chúng ta gặp phải quân địch, tôi chắc chắn sẽ bắt chúng đo thị lực.”

“Tôi phải nói rằng mương hào là phát minh vĩ đại nhất của loài người. Ai đó đào cho tôi cái hào.”

“Mày có thể đào bao nhiêu hào mày muốn sau khi chúng ta về nhà. Đây là lệnh.”

“Đây chẳng phải là cách họ tra tấn tù nhân sao?”

“Anh mày sẽ bỏ hết lương hưu quyên tặng cho người phát minh ra cách khiến mày ngậm m –– chết tiệt, bắt đầu rồi! Đừng có để hai hòn bi nổ tung đấy, rõ chưa mấy quý ngài!” Ferrell hét lên.

Những âm thanh đinh tai nhức óc lan tràn trong không khí. Tôi có thể cảm thấy từng cơn rùng mình khi bom nổ từ đằng xa.

Tôi lại chú ý tới Yonabaru. Sau những gì xảy ra trong buổi tập thể hình, có thể giấc mơ của tôi chỉ là giấc mơ, nhưng nếu Yonabaru chết ngay bên cạnh tôi ngay khi bắt đầu trận chiến, tôi sẽ không thể tha thứ cho chính mình. Tôi tua lại những gì xảy ra trong giấc mơ ở trong đầu. Mũi giáo tới từ hướng hai giờ. Nó bay xuyên qua màn ngụy trang, xé toạc nó thành từng mảnh chỉ sau khoảng một phút sau khi trận chiến nổ ra.

Tôi căng hết cả mình lên, sẵn sàng bị hạ gục bất kỳ lúc nào.

Đôi bàn tay đang run rẩy. Cơn đau lan ra từ thắt lưng. Một nếp gấp của bộ đồ bên trong đang tì vào hông tôi.

Họ đang chờ đợi gì vậy?

Phát bắn đầu tiên không trúng Yonabaru.

Phát bắn đầu tiên đáng lẽ phải giết anh ta thì lại hướng về phía tôi. Tôi chẳng có thời gian để di chuyển tới một milimet. Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảnh mũi giáo của đối phương bay thẳng về phía tôi.


5[]

Quyển sách tôi đang đọc dở nằm bên cạnh cái gối.

Đó là một cuốn tiểu thuyết kỳ bí về một thám tử người Mỹ có vẻ như rất hiểu biết về người phương Đông. Tôi đưa ngón trỏ chỉ vào cảnh nơi những nhân vật chủ chốt gặp mặt và ăn tối tại một nhà hàng Nhật Bản giữa lòng New York.

Không ngồi dậy, tôi cẩn thận nhìn quanh doanh trại. Không có gì thay đổi cả. Tấm ảnh siêu mẫu đồ bơi vẫn được ghim đầu của thủ tướng vào. Cái radio với hệ âm bass hỏng vẫn rống lên trên giường trên; một gã ca sĩ chết từ thuở nào đang khiển trách chúng tôi khi nuối tiếc một tình yêu đã mất. Sau khi chờ một hồi để chắc rằng cô nàng DJ sẽ đọc bản tin dự báo thời tiết với cái giọng như đang nhai kẹo cao su xong, tôi ngồi dậy.

Ngồi tại mép giường, tôi dịch người ra.

Tôi dồn hết sức véo cánh tay mình. Cái chỗ bị véo sưng đỏ lên. Đau như chó ấy. Đau ứa nước mắt ra.

“Keiji, kí vào.”

Yonabaru thò đầu ra từ giường trên.

“...”

“Sao thế? Vẫn còn buồn ngủ à?”

“Không. Anh cần em kí chứ gì? Tất nhiên rồi.”

Yonabaru lại thụt đầu vào.

“Anh không phiền nếu em hỏi cái này chứ?”

“Cái gì vậy? Anh chỉ cần chú mày kí vào chỗ này thôi.” Tiếng nói phát ra từ bên trên khung giường. “Đừng có viết thêm cái gì vào. Vẽ tranh biếm họa gã đại úy vào mặt sau không có vui đâu.”

“Sao em phải làm vậy chứ?”

“Anh không biết. Anh đã làm vậy trong lần đầu anh kí vào.”

“Đừng có bắt đầu so sánh–– à không, quên đi. Em muốn hỏi là, cuộc tấn công bắt đầu vào ngày mai đúng không?”

“Ừ. Đó đâu phải là thứ hay bị thay đổi đâu.”

“Anh chưa từng nghe thấy ai cứ sống lại trong ngày hết lần này qua lần khác, đúng không?”

Hắn ta im bặt một lát rồi đáp lại. “Chú mày có chắc chú mày không ngái ngủ không đấy? Ngày sau ngày hôm qua là ngày hôm nay. Sau ngày hôm nay là ngày mai. Nếu nó không vận hành theo cơ chế như vậy thì sẽ chẳng có Giáng sinh hay Valentine. Như vậy thì ăn gạch vào mồm à.”

“Ờ. Đúng vậy.”

“Nghe này, chiến dịch ngày mai chẳng có gì đâu.”

“...Đúng vậy.”

“Cứ lo lắng thái quá thì chú mày sẽ thành cái bị thịt –– mất ý thức trước cả khi chúng có cơ hội thổi bay óc chú mày đi.”

Tôi ngơ ngác nhìn cái khung nhôm của chiếc giường.

Khi tôi còn bé, cuộc chiến chống Mimic đã bắt đầu. Thay vì những chàng cao bồi và người Ấn Độ hay cảnh sát và kẻ trộm, chúng tôi đánh trận giả với quái vật ngoài hành tinh với những khẩu súng đồ chơi bắn ra những viên đạn nhựa bằng lò xo. Bị bắn trúng thì hơi đau một chút, nhưng chỉ có vậy thôi. Kể cả có bắn gần tới mức nào. Tôi luôn đóng vai anh hùng, hứng đạn hộ đồng đội. Tôi dũng cảm lao vào làn đạn, ăn hết viên này tới viên khác. Mỗi lần bị bắn trúng tôi lại nhảy lên một cái, biểu diễn một điệu nhảy đã luyện tập từ trước. Tôi rất khá trong chuyện này. Bị ảnh hưởng trước cái chết của người anh hùng, đồng đội của cậu ta sẽ phản công. Với sự hy sinh cao cả, cậu ta bảo đảm cho sự an nguy của loài người. Thắng lợi được tuyên bố, và những đứa trẻ đóng phe ác quay về phe loài người và mọi người cùng ăn mừng. Chẳng có trò chơi nào như vậy.

Đóng giả làm một người hùng chết trận là một chuyện. Chết thật lại là một chuyện khác. Khi tôi lớn lên, tôi hiểu được sự khác biệt, và tôi biết rằng tôi không muốn chết. Kể cả trong giấc mơ.

Những cơn ác mộng khiến bạn không thể thức giấc, dù cho có thử bao nhiêu lần. Tôi, bị kẹt trong một cơn ác mộng, và dù có tỉnh dậy bao nhiêu lần, tôi vẫn kẹt trong đó. Chuyện tồi tệ nhất không phải là khi bạn bị kẹt trong một vòng lặp không thể thoát ra, mà là khi bạn nhận thức được chuyện đó. Khi ấy tôi còn phải chống lại nỗi sợ hãi nữa.

Nhưng liệu nó sẽ lại xảy ra với tôi hay không?

Cái ngày mà tôi đã sống tận hai lần lại bày ra trước mắt tôi. Hay rút cục đó vẫn chỉ là một giấc mơ. Tất nhiên mọi thứ sẽ xảy ra y hệt như những gì tôi nhớ. Tất cả đều ở trong đầu tôi, nên tại sao không?

Chuyện này thật là nực cười. Tôi thụi một quyền xuống cái đệm.

Tôi đã mơ về chấm đen đó bay tới à? Liệu cái cảnh mũi giáo đó xé toạc lớp giáp và đâm xuyên qua ngực tôi chỉ là những cảnh trong đầu ư? Tôi đã tưởng tượng ra từng ngụm máu mà tôi ho ra ư?

***

Để tôi kể cho bạn nghe chuyện gì xảy ra khi phổi bạn bị nghiền nát. Bạn sẽ bị đuối, không phải trong nước, mà là trong không khí. Hít thở mạnh thế nào thì phổi bị vỡ cũng không thể vận chuyển oxy cần thiết vào máu. Quanh bạn, bạn bè của bạn đều đang hít thở đều không chút do dự còn bạn thì chết đuối giữa một biển không khí. Tôi chưa từng biết tới chuyện này tận tới lúc nó xảy ra với tôi. Tôi chưa từng nghe nói về chuyện đó. Đây không thể là do tôi tự tưởng tượng ra. Nó thực sự đã xảy ra.

Có kể cho ai cũng chẳng ích gì, sẽ chẳng có ai tin tôi. Dù vậy đó vẫn là thật. Cảm giác in trong óc tôi kia quá đủ để trở thành bằng chứng. Đau đớn chạy dọc cơ thể như một đòn sét đánh, đôi chân trở nên nặng như chì, nỗi sợ hãi như bóp nghẹt trái tim bạn –– đó không phải là thứ có thể mơ tới hay tưởng tượng ra. Tôi không rõ tại sao, nhưng tôi đã bị giết. Hai lần. Không thể sai được.

Tôi không ngại khi phải nghe lại mấy câu chuyện mà Yonabaru đã kể. Chết tiệt, muốn tôi nghe mười lần, trăm lần, bao nhiêu cũng được. Cuộc sống thường nhật của chúng tôi ngày nào mà chả phải như vậy chứ. Nhưng quay trở lại chiến trường? Không, cảm ơn.

Nếu tôi ở đấy, tôi sẽ bị giết. Dù cho tôi hay Yonabaru chết trước cũng chẳng quan trọng. Làm sao mà tôi có thể sống sót qua màn đấu hỏa lực đó chứ. Tôi phải đi. Bất cứ nơi nào cũng được, chỉ cần không phải chỗ này.

Kể cả bụt cũng biết giận, mà tôi lại không phải ông bụt. Tôi chưa bao giờ là một người cuồng tín tin vào Chúa trời, Phật tổ, bla bla bla, nhưng nếu họ có thực và cho tôi cơ hội thứ ba thì tôi không muốn lãng phí nó. Nếu tôi ngồi đây nhìn lên giường trên, thứ tương lai duy nhất chờ đợi tôi chính là nằm trong túi đựng xác. Nếu tôi không muốn chết, tôi phải di chuyển. Di chuyển trước, nghĩ sau. Y như những gì họ dạy trong khóa huấn luyện.

Nếu hôm nay lại lặp lại ngày hôm qua, Ferrell sẽ tới đây trong vòng vài phút. Lần đầu tiên anh ta xuất hiện tôi đang bị cho ăn đòn, lần thứ hai thì tôi đang tán dóc với Yonabaru. Sau đó chúng tôi phải đi tập cái bài tập thể hình ngu ngốc, và rồi quay trở lại toàn thân rã rời. Để xem nào. Mọi người trong Đội trọng trang #17 sẽ ở trong buổi tập thể hình đó. Không chỉ vậy, mọi người trong căn cứ mà đang rảnh rỗi đều sẽ chạy tới quanh sân mà đứng xem. Tôi không thể đòi hỏi một cơ hội tuyệt vời hơn để chuồn ra khỏi căn cứ được rồi. Sau khi tập xong tôi hẳn sẽ mệt mỏi rã rời, vậy nên đây có lẽ là cơ hội duy nhất tôi có được.

Nếu tôi tự làm bị thương mình thì chắc là có thể thoát. Họ sẽ không ép một người lính bị thương đi tập thể hình. Tôi cần một vết thương trông đủ tệ để trốn được buổi tập, nhưng lại không quá nặng làm cản trở kế hoạch của tôi. Một gã dù chỉ trầy trật hời hợt cũng có thể chảy máu như lợn bị chọc tiết. Đó là cái đầu tiên họ dạy trong buổi Sơ Cứu. Hồi đó tôi tự hỏi sơ cứu liệu có giúp ích gì khi mà mũi giáo của Mimic cắt phăng đầu bạn và vứt nó đi, nhưng tôi đoán tôi sẽ không bao giờ ngờ được một mẩu kiến thức con con kia sẽ hữu ích như vầy. Tôi phải bắt đầu nhanh thôi.

Chết tiệt! Tôi có cả ngày bị lặp lại, thế mà tôi lại chẳng có đủ thời gian khi tôi cần tới nó. Gã trung sĩ bị thịt ngáng đường kia đang tới. Đi nào! Đi nào!

“Cái gì bên dưới mà ồn thế?” Yonabaru hỏi.

“Em đi ra ngoài một lát.”

“Ra ngoài? Này! Anh cần chú mày kí!”

Tôi nhảy ra khỏi giường mà không thèm buộc cả dây giày. Bê tông cọ xát dưới chân tôi, tôi quay người đổi hướng ngay trước tấm poster treo hình người mẫu áo tắm. Tôi phi qua gã đang ôm tạp chí porn nằm trên giường.

Tôi chẳng tính đi nơi nào cụ thể cả. Ưu tiên hàng đầu lúc này là không đụng phải Ferrell. Tôi phải đi tới nơi nào đó khuất tầm nhìn để có thể tự chọc cho mình bị thương, rồi khoe vết thương máu me trong lúc Yonabaru và Ferrell đang nói chuyện với nhau. Với một kế hoạch mì ăn liền như vậy thì đã là không tồi rồi.

Chết tiệt. Tôi đáng ra phải mang theo cái dao kẹp dưới gối. Đối mặt với Mimic thì nó vô dụng, nhưng để mở đồ hộp hay cắt cành cây hoặc vải vóc thì nó trở thành thứ không một tay lính bình thường nào có thể thiếu. Tôi đã tự cắt phải tay mình cả ngàn lần trong khi huấn luyện. Tạo ra một vết thương với nó thì đơn giản như đang giỡn.

Tôi đã ra tới cửa doanh trại, và tôi muốn cách tổng hành dinh càng xa càng tốt. Tôi giảm tốc dần khi chạy vòng qua một góc tòa nhà.

Có một người phụ nữ ở đó. Canh giờ tệ quá.

Cô ấy vừa càu nhàu vừa đẩy một cái xe đẩy chất đầy khoai tây. Tôi biết cô ấy: Rachel Kisaragi, một thường dân làm việc tại Căn tin Số 2. Một nàng bạch tuyết quấn khăn trên đầu, chiếc khăn được gấp gọn gàng thành hình tam giác, che đi mái tóc gợn sóng màu đen óng ả. Cô ấy có làn da hơi sạm màu đầy sức sống với bộ ngực to trên mức bình thường. Vòng eo thì thon gọn mảnh mai. Trong ba loại phụ nữ mà loài người hay khoe khoang –– loại xinh xắn, dịu dàng và những con gorilla mà bạn chẳng còn cách nào khác ngoài đóng gói lại và gửi tới quân đội –– tôi sẽ xếp cô ấy vào loại xinh xắn mà không chút do dự.

Trong cuộc chiến đã kéo dài hai mươi năm thì móc đâu ra tiền để thuê nhân viên nhà nước về làm hậu cần cho quân đội chứ. Kể cả tại tiền tuyến, họ cố gắng thuê dân thường làm những công việc không cần chiến đấu càng nhiều càng tốt. Nghị viện đã từng thảo luận về việc nên hay không quy hạng mục vận chuyển thiết bị quân sự tại những vùng không có chiến hỏa vào mục tư nhân. Người ta còn đùa rằng cứ thế này, họ sẽ nhường việc đánh nhau lại cho dân thường mất.

Tôi có nghe bảo rằng Rachel giống một chuyên gia dinh dưỡng hơn là một đầu bếp. Lý do duy nhất khiến tôi nhận ra cô ấy là do Yonabaru đã theo đuổi cô ta trước khi hắn dính với cô bồ hiện tại. Có vẻ như cô ấy không thính những gã quá chủ động, mà Yonabaru thì còn lâu mới đạt yêu cầu.

Trong dòng suy nghĩ tôi nhếch môi cười, và rồi cả một núi khoai tây đổ sụp trên người tôi. Đen đủi thay, tôi có thò chân phải ra để giữ thăng bằng, nhưng lại đạp phải một củ khoai và trượt sõng soài đập mông xuống sàn nhà. Khoai tây trút như thác lên mặt tôi, từng củ từng củ một, cứ như những cú đấm trái phá của một tay quyền anh mới vào nghề trên con đường tới chức vô địch thế giới hạng cân nặng. Chiếc xe đẩy kim loại làm nốt cú cuối cùng, đâm thẳng vào thái dương tôi.

Tôi đổ sập xuống sàn, kêu cái uỵch, vang to như lựu đạn nổ. Tôi đau đến ngạt thở cả một hồi.

“Anh có sao không?”

Tôi rên rỉ. Ít nhất thì có vẻ không có củ khoai nào rơi trúng Rachel.

“Tôi... tôi nghĩ vậy.”

“Xin lỗi nhé. Tôi không thể nhìn rõ đường khi đẩy cái thứ này đi.”

“Nah, không phải lỗi của cô. Tôi nhảy ra ngay trước mặt cô đấy chứ.”

“Này, tôi có quen anh không nhỉ?” Rachel cúi xuống nhìn gã ngã sõng soài tội nghiệp bằng đôi mắt xanh mà lá cây.

Tôi nở nụ cười bẽn lẽn. “Có vẻ chúng ta lại đụng phải nhau rồi...”

“Tôi nhớ rồi! Anh là tay lính mới ở đội #17”

“Ừ. Xin lỗi vì đã khiến cô gặp rắc rối,” Tôi nói. Một củ khoai lăn ra khỏi bụng tôi.

Với một tay chống hông, Rachel xem xét thương tổn của tôi. Cặp lông mày thanh tú khẽ nhướn lên. “Anh có thể ngăn không cho nó lăn ra xa hơn mà.”

“Xin lỗi.”

“Đó là lỗi của nó khi tròn đều như vậy.” Cô ấy khẽ cong lưng khiến bộ ngực ưỡn ra. Khó mà làm ngơ nó được.

“Chắc vậy.”

“Anh đã từng thấy củ khoai nào tròn như vậy chưa?”

Tôi chưa từng. Tất nhiên là không tính những củ lăn lóc trên sàn nhà.

“Nếu anh giúp thì lượm lại chỗ này không mất nhiều thời gian đâu.”

“Không –– ý tôi là, ừ.”

“Chà, cái gì thế này?”

Đồng hồ đang tích tắc kêu. Nếu tôi không ra khỏi đây ngay lúc này, tôi sẽ chết vào ngày mai. Tôi không có thời gian đứng đây lượm khoai –– cũng như phụ giúp bất kỳ việc gì. Nhưng có thứ khác lại ngăn trở tôi, là sự cuốn hút của cô ấy với tôi ngay từ lần đầu tiên tôi gặp cô ấy, ngay sau khi tôi được bổ nhiệm vào căn cứ.

Tôi ngồi sõng soài trên sàn, ngồi yên và giả vờ đang đau.

Tôi đang định trả lời cô ấy thì nghe được tiếng những bước chân đều đều tiến tới từ đằng sau.

“Cô đang làm gì thế?” âm thanh như tiếng hú từ cổng Địa ngục. Ferrell.

Anh ta xuất hiện từ góc doanh trại và giờ đang nhìn đống khoai tây nằm ngáng đường với ánh mắt kém thân thiện.

“Tôi – tôi đang đẩy xe, và rồi ––“

“Chỗ này là do chú mày à, Kiriya?”

“Vâng, thưa ngài!” Lom khom bò dậy. Cơn chóng mặt bỗng trào lên. Anh ta đảo mắt qua lại rồi nhìn về phía tôi.

“Th-thưa ngài?”

“Chú mày bị thương rồi. Để anh xem nào.”

“Không có gì đâu. Em sẽ ổn thôi.”

Ferrell bước tới trước và sờ đầu tôi, ngay chỗ trán ấy.

Cơn đau bỗng chốc chạy dọc da đầu tôi. Những ngón tay như những cây xúc xích của anh ấy vạch miệng vết thương của tôi ra. Máu tươi ứa ra từ trán, phun đều rất có tiết tấu. Dòng máu từ từ chảy xuống một bên cánh mũi, chảy qua khóe miệng, rồi đọng lại tại cằm trước khi tí tách tí tách từng giọt rơi xuống. Một bông hoa máu nở rộ trên nền bê tông. Cái mùi tanh tanh của kim loại xộc vào mũi. Rachel thở hổn hển.

“Hrmm. Vết rách rất gọn và sạch. Mày đụng phải đâu thế?”

Rachel bước tới. “Cái xe đẩy bị đổ. Tôi xin lỗi.”

“Chuyện là vậy sao?”

“Thực ra em mới là người đâm phải cô ấy, nhưng chà, chắc là vậy.”

“Được rồi. Chà, nhìn tệ thế chứ không sao đâu. Chú mày sẽ ổn thôi,” Ferrell nói, không quên vỗ vào sau đầu tôi một phát rất kêu. Lại một dòng máu nữa phụt ra từ chân mày, nhuộm đỏ cả áo sơ mi. Để tôi ở đó, anh ta đi tới chỗ góc doanh trại và hét lên, đủ to để dọa cả những con ve đậu trên tường, “Yonabaru! Xách cái mông lại đây!”

“Có quân vụ phải làm sao? Em tới ngay –– ồ. Chào buổi sáng, Rachel. Thưa trung sĩ, lại một ngày tốt lành nhỉ? Được rồi, có vẻ như dạo này khoai tây còn mọc trên bê tông cơ đấy.”

“Im mồm lại và gọi thêm mấy tên tới đây lượm đi.”

“Ai, em á?”

“Thằng kia sẽ không lượm lặt cái gì khác, nên không mày thì là ai?” Ferrell gật đầu về phía tôi.

Yonabaru há hốc mồm. “Trời ạ, chú mày đâm phải cái gì vậy? Mày bây giờ trông y hệt thằng liên tục bị ném vào trong chuồng cùng với một gã người Ailen nặng ba trăm hai mươi pound vậy.” Rồi nói với trung sĩ: “Chờ đã, vậy có nghĩa là Keiji là người làm cả đống này đổ ra?” Rồi lại quay về phía tôi: “Đây không phải là cách hay để bắt đầu ngày mới đâu, đi với đứng vào buổi sáng như vậy à.”

“Có chuyện gì sao, anh không muốn giúp à?”

“Đừng đùa chứ! Vì chú mày, anh có thể lượm tất cả. Khoai tây, bí ngô, bom bi ––“

“Đủ rồi. Chú mày định kháng lệnh đấy à?”

“Đừng nói thế chứ, Trung sĩ. Anh cứ chờ xem. Em sẽ mang tới những chàng trai năng nổ nhất trong đội #17.”

“Kiriya! Thôi trò ngây như phỗng như bù nhìn và vác xác tới trạm xá đi! Mày được miễn buổi tập thể hình ngày hôm nay.”

“Tập thể hình? Ai nói hôm nay tập thể hình đấy?”

“Là anh mày. Ai đó đã đạp phải một đống cứt lợn cao bằng đầu gối trong PX đêm hôm qua. Giờ chúng mày chưa phải làm gì, nhưng đừng quên, vào lúc chín giờ đúng, chúng mày phải tập hợp tại Sân huấn luyện #1 chỗ thiết bị cấp độ 4 để Rèn luyện Thể lực.”

“Anh đùa à! Mai bọn em sẽ ra chiến trường, và giờ anh định đẩy bọn em đi tập thể hình?”

“Đó là lệnh, Hạ sĩ.”

“Thưa ngài, trình diện tại Sân huấn luyện #1 vào lúc 9:00 AM chỗ trang thiết bị cấp 4, rõ! Nhưng, uh, Trung sĩ này. Chúng ta đã ăn trộm rượu nhiều năm rồi. Tại sao lần này họ lại làm căng vậy?”

“Mày thật sự muốn biết?” Ferrell đảo mắt.

Mặc kệ đoạn đối thoại mà tôi đã nghe đi nghe lại, tôi chuồn tới trạm xá.


6[]

Tôi đang đứng ngay trước cánh cửa ngăn cách căn cứ với thế giới bên ngoài. Gã bảo vệ kiểm tra ID của tôi nhướn mày đầy nghi hoặc.

Do bọn Hoa Kỳ tới, căn cứ lại có thêm một tầng bảo vệ nữa. Mặc dù Cảnh vệ Nhật Bản đã phụ trách bảo vệ an ninh căn cứ nhưng để bảo đảm cân bằng quyền lực, họ không được phép can thiệp vào bất kỳ sự vụ gì dưới sự bảo hộ của Hoa Kỳ. May mà tụi bảo vệ của Hoa Kỳ chẳng hứng thú gì với người không phải người của họ.

Nếu không có giấy phép từ phòng chỉ huy, Keiji Kiriya không được phép ra khỏi căn cứ. Nhưng tụi lính Mỹ cứ ra vào tùy tiện, và tất cả những việc chúng cần làm là quẹt thẻ ID. Mọi người dùng chung một cổng, nên nếu tôi gặp một gã bảo vệ người Mỹ, hắn ta có thể để tôi qua, chẳng thèm hỏi lấy một câu. Tất cả những gì chúng quan tâm là ngăn những kẻ quấy rối tới gần Lực lượng Đặc nhiệm cục cưng của họ. Một tay lính mới muốn nghỉ không phép thì họ chẳng thèm để vào mắt đâu.

Gã bảo vệ hẳn ít khi thấy thẻ ID Nhật Bản, vì gã nhìn chằm chằm vào cái của tôi một hồi lâu. Cỗ máy kiểm tra thẻ ID chỉ ghi lại những người đi qua cổng. Không cần phải hoảng sợ. Chẳng có lý do gì họ lại sửa lại hệ thống ngay trước ngày tiến công, phải không? Cơ bụng của tôi căng lên. Gã bảo vệ hết nhìn tôi rồi lại nhìn cái thẻ, so sánh bức ảnh mờ câm in trên đó với mặt của tôi.

Vết thương trên thái dương tôi đau nhói. Gã y sĩ băng bó cho tôi tại trạm xá khâu cho tôi ba mũi mà chẳng thèm tiêm lấy một mũi thuốc tê. Giờ từng cơn đau đớn cứ như những tia sét đánh thẳng xuống cơ thể tôi. Xương khớp tại đầu gối tôi kêu cót két.

Tôi giờ chỉ có tay không. Tôi bỏ quên dao, đồ ấm và tiền dưới gối. Nếu tôi mang chúng theo, tôi có thể cho hắn ăn một đòn khóa khớp và –– mà có hối tiếc giờ cũng chẳng ích gì. Tôi ưỡn thẳng lưng lên. Phải bình tĩnh lại. Nếu hắn ta nhìn mày, mày phải nhìn lại.

Ngáp một cái, tay bảo vệ ấn cái nút để mở cửa. Cánh cửa hướng tới tự do kẽo kẹt mở ra.

Tôi từ từ quay lại nhìn trong khi lao qua vạch kẻ màu vàng. Ở đó, từ xa xa, là sân huấn luyện. Gió biển rì rào, hòa lẫn với khung cảnh đại dương, cuốn qua khoảng sân phía trước cổng vào. Bên kia hàng rào, những quân nhân bé tí như con kiến đang tập thể hình như trong bức tranh thu nhỏ. Họ đều là những người lính đã cùng ăn uống, cùng huấn luyện cùng tôi. Họ đều là những người bạn của tôi tại tiểu đội #17. Tôi nuốt xuống nỗi thương cảm tắc nghẹn trong cổ họng. Tôi bước đi, không vội vã, cơn gió ẩm phà vào người tôi. Cứ đi cho tới khi gã bảo vệ không nhìn thấy mày nữa. Đừng chạy. Thêm một chút thôi. Rẽ tại góc đường. Tôi bứt tốc lao đi.

Một khi bắt đầu chạy, tôi không dừng lại.

Căn cứ cách mười lăm cây số với quận Tateyama, một quận vui chơi giải trí gần đó. Dù cho tôi có chạy vòng vèo thì cũng chỉ kéo dãn ra tối đa là hai mươi cây số. Một khi tôi ở đó, tôi có thể thay quần áo và tiếp tế những thứ tôi cần. Tôi không thể mạo hiểm lên tàu điện hay đi đường quốc lộ, nhưng một khi tôi tới Thành phố Chiba thì tôi sẽ tự do. Cả quân đội lẫn cảnh sát đều không mọc rễ tới cái thế giới ngầm vốn là khu thương mại sầm uất nhưng nay đã thành khu ổ chuột kia.

Còn khoảng tám tiếng nữa là tới cuộc họp của Sư đoàn 1830. Đó hẳn sẽ là lúc họ nhận ra tôi nghỉ không phép. Tôi không rõ họ có điều xe ô tô đi đuổi theo tôi hay không, nhưng trước màn trời nhá nhem,tôi sẽ trở thành một khuôn mặt bình thường đến không thể bình thường hơn trong đám động thôi. Tôi vẫn nhớ buổi huấn luyện tại chân núi Phú Sĩ. Sáu mươi cây số trang bị đầy đủ đi diễu hành. Băng qua Boso Peninsula trong nửa ngày không phải là vấn đề to tát. Cái lúc mà trận chiến ngày mai nổ ra, tôi sẽ xa rời cái chuỗi ngày lặp đi lặp lại và kết thúc bằng cái chết kinh hoàng kia.

Mặt trời leo lên cao, tắm cả người tôi trong ánh nắng vàng ấm áp. Những khẩu súng tự động cỡ nòng năm mươi bảy li được che vải bạt thiết lập cách bờ đê khoảng trăm mét. Những tấm chắn thép tại bệ đặt súng đóng từng tầng gỉ sét màu nâu đỏ. Những khẩu súng đó được đặt suốt dọc bờ biển khi lũ Mimic lên tới đất liền.

Hồi tôi còn bé, lần đầu tiên nhìn thấy súng, tôi nghĩ chúng là thứ ngầu nhất quả đất. Lớp sơn đen phủ bên ngoài thép lạnh truyền cho tôi cảm giác tự tin không giấy mực nào tả được. Giờ khi tôi nhìn thấy chiến trường thực sự, tôi hoàn toàn hiểu được rằng những vũ khí hoành tráng kia chẳng thể đầy lùi những đợt tấn công của lũ Mimic. Những khẩu súng đó di chuyển như những con khủng long. Chúng chẳng có hy vọng bắn trúng nổi một con Mimic. Thật buồn cười.

Những khẩu súng đó vẫn được nhân viên tới bảo trì một tuần một lần. Bọn quan chức thích tiêu xài phung phí mà.

Có lẽ loài người sẽ thua.

Cái suy nghĩ đó đột nhiên nảy ra trong tôi, nhưng tôi lại chẳng thể giũ bỏ nó đi được

***

Khi tôi kể cho bố mẹ tôi sẽ đi lính, họ muốn tôi làm lính canh phòng bờ biển. Họ nói tôi vẫn có cơ hội chiến đấu mà không phải ra chiến trường. Rằng tôi sẽ đảm nhận vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thành phố nơi người dân sống và làm việc.

Nhưng tôi không muốn chiến đấu với Mimic để bảo vệ nhân loại. Tôi đã thấy cảnh đó chán chê trên màn ảnh rồi. Dù cho có đem não tôi mổ xẻ ra cũng đừng hòng tìm thấy được chút khát vọng vĩ đại nào như là bảo vệ loài người. Thứ có thể tìm thấy được có chăng chỉ là một bức tranh ghép hình rối bòng bong mà bạn đừng hòng giải được. Dưới cả núi mảnh ghép kia có gì đó không khớp. Nó khiến tôi thật khó chịu.

Tôi yếu đuối. Tôi còn không thể khiến cho người phụ nữ tôi yêu ––cô nàng thủ thư–– để tôi vào mắt. Tôi nghĩ xu thế mạnh mẽ của chiến tranh có thể thay đổi bản thân tôi, tôi luyện bản thân tôi thành thứ gì đó hữu dụng. Chắc là tôi đã tự lừa bản thân rằng mình sẽ tìm thấy mảnh ghép còn thiếu để hoàn thành Keiji Kiriya trên chiến trường. Nhưng tôi chưa từng muốn trở thành một người hùng, được người người ngưỡng mộ. Chưa từng trong đời luôn. Cùng lắm thì tôi sẽ chỉ chém gió với vài người bạn rằng tôi sẽ là người có thể làm gì đó cho thế giới này, để lại được chút dấu ấn, dù là nhỏ nhoi, chỉ thế là đủ.

Và nhìn xem nó dẫn tôi tới đâu này.

Nửa năm huấn luyện đã làm gì được cho tôi? Giờ tôi sở hữu một mớ kĩ năng gần như rách việc trong trận chiến thực sự và cơ bụng sáu múi. Tôi vẫn cứ yếu, và trái đất vẫn cứ quay. Bố, mẹ, con xin lỗi. Mất quá nhiều thời gian con mới nhận ra điều hiển nhiên này. Tiếc là con đã phải chạy trốn khỏi quân đội trước khi con nhận ra điều đó.

***

Bãi biển ngập cát vàng. Lính phòng vệ bờ biển hẳn đã bận rộn sơ tán nơi này suốt sáu tháng qua.

Sau gần một tiếng chạy bộ, tôi cũng tới được mép bờ đê. Tôi đã chạy được tám cây số, tức là một nửa quãng đường tới Tateyama. Chiếc áo sơ mi màu cát giờ đen kịt và nhễu nhại mồ hôi. Băng sơ cứu buộc trên đầu tôi giờ đã bắt đầu lỏng. Một cơn gió biển nhẹ thổi qua –– xua tan cái bức bối do những cơn gió nồm thổi vào căn cứ –– mơn trớn đằng sau cổ tôi. Nếu không phải vì mấy khẩu súng máy, những đạo cụ vốn chỉ có trong mấy bộ anime cũ xưa được đem vào thực tế, đây hẳn sẽ là một khung cảnh khu nghỉ dưỡng nhiệt đới hết sức nên thơ.

Bãi biển giờ rải rác bao nhiêu là pháo hoa đã dùng rồi –– cái loại pháo mà bạn gom chúng lại rồi phóng bằng một cái ống nhựa ấy. Chẳng ai điên khùng tới mức tới gần một doanh trại quân sự để bắn pháo hoa cả. Đây hẳn là tàn dư do mấy tên khốn muốn cảnh báo cho tụi Mimic biết về cuộc tấn công trên Boso Peninsula. Có một số nhà hoạt động xã hội phi chiến tranh luôn thuyết phục người ta rằng Mimic là những sinh vật trí tuệ cao, và họ chỉ đang cố mở một đường dây liên lạc kết nối với chúng. Dân chủ thế đấy!

Do hiện tượng nóng lên toàn cầu, cả một đường bờ biển này luôn nằm dưới mực nước biển khi thủy triều lên. Khi trời chập choạng, những cái ống chết tiệt này sẽ bị nước biển cuốn đi và bị lãng quên. Sẽ không còn ai biết đến nó nữa. Tôi đá vào một cái ống chảy nhựa mạnh hết sức có thể.

“Chà, ai đây ta? Một quân nhân?”

Tôi quay người lại.

Cũng lâu rồi tôi chưa được nghe tiếng Nhật. Tôi đã quá nhập tâm và không để ý có người đã tới sau lưng tôi.

Hai thân hình, một ông già và một cô bé đứng trên đê. Làn da của ông cụ vàng cứ như dưa muối. Trên tay phải ông ấy cầm một cái đinh ba như trong những câu chuyện thần thoại. Ông cầm đinh ba làm gì thế? Cô bé –– có vẻ như đang học tiểu học –– siết chặt lấy tay ông cụ. Lấp ló trốn sau chân ông, cô bé nhìn tôi với vẻ bình tĩnh từ bên dưới chiếc mũ rơm. Khuôn mặt ẩn bên dưới cái mũ thật quá trắng với người thường xuyên bị ánh mặt trời thiêu đốt.

“Trông cháu lạ mặt ghê hen.”

“Cháu từ căn cứ Tuyến Flower.” Chết tiệt! Lại lưỡi nhanh hơn óc rồi.

“À.”

“Sao, ừm, hai người lại tới đây?”

“Biển có cá mòa. Cả nhà đều đã tới Tokyo rồi.”

“Thế đội bảo vệ bờ biển đâu?”

“Từ khi ông cháu tui vớt được cái con nớ là mọi chuyện thay đổi á. Tại răng ư, bọn họ đi hết rồi. Nếu mà quân đội giải quyết được tụi cá lù đù hộ mọi người thì người dân sẽ dễ thở hơn đó.”

“Vâng.” Cá lù đù (một loài cá biết kêu) là từ địa phương cho Mimic. Bình thường thì người dân hiếm khi được thấy tận mắt một con Mimic. Cùng lắm thì họ chỉ lượm được một cái xác thối rữa chỏng chơ trên bờ biển, hoặc một con bị mắc kẹt trong lưới đánh cá và chết. Nhưng do lớp cát đen bị nước biển rửa trôi hết nên tất cả những gì còn lại chỉ là một cái vỏ trống rỗng. Chính vì vậy mà rất nhiều người tưởng Mimic là loài lưỡng cư lột da.

Tôi chỉ hiểu được tầm 70% những gì ông già nói, nhưng thế là đủ để biết rằng Đội bảo vệ Bờ biển đã rút khỏi khu vực. Thất bại của chúng tôi tại Okinawa hẳn là nghiêm trọng hơn tôi nghĩ nhiều. Nghiêm trọng tới mức phải liên quân lại và rút xuống tuyến Uchibo. Mọi người đều được bố trí nhân sự lại, tập trung tại các thành phố lớn và các khu công nghiệp.

Ông cụ mỉm cười và gật đầu. Cô bé nhìn ông với đôi mắt to tròn mở lớn, cứ như ngạc nhiên lắm ấy. Ông cụ đã đặt rất nhiều hy vọng lên những chiến sĩ UDF tại Căn cứ Tuyến Flower. Dù tôi đi lính không phải là để bảo vệ ông cụ hay những người khác, thế nhưng tôi vẫn thấy khó chịu trong người.

“Con có thuốc hông, con trai? Từ khi quân đội rời đi ông đã không được sờ tới nó rồi.”

“Xin lỗi. Cháu không hút.”

“Ồ hông sao.” Ông cụ nhìn về biển khơi.

Trong Lực lượng Bộ binh Vũ trang không nhiều người nghiện thuốc lắm. Có lẽ là do bạn không thể hút thuốc giữa chiến trường, cái lúc bạn cần chúng nhất.

Tôi cứ yên lặng đứng đó. Tôi không muốn làm ra hay nói ra chuyện gì nhảm nhí cả. Tôi không thể để ông cụ biết tôi đào ngũ được. Họ bắn chết những kẻ đào ngũ. Trốn thoát khỏi lũ Mimic chỉ để bị quân đội giết chết cũng chẳng hay ho gì.

Cô bé kéo kéo tay ông cụ.

“Cháu tui nhanh chán lắm. Nhưng mà con bé tinh mắt lắm đó nghen. Nếu mà là con trai thì con bé đã là một ngư dân tuyệt vời rồi đó.”

“Vâng.”

“Ông phải đi là vì thứ này. Ông nỏ khi mô thấy cái chi giống như ri hết á. Ông phải chạy ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt, rồi thì gặp cháu ở chỗ ni. Cái ni là cái chi? Có liên quan chi tới tụi cá lù đù hông?” Ông cụ dơ tay lên.

Mắt tôi dõi theo hướng những ngón tay ông cụ chỉ tới. Nước đã chuyển thành màu xanh lá. Không phải cái màu xanh lục bảo bạn hay thấy tại những bờ biển ở vài hòn đảo trên Nam Thái Bình Dương mà là một màu xanh sủi bọt đục ngầu, cứ như thể một chiếc tàu chở hàng chở đầy kem vị trà xanh bị mắc cạn và đổ hết ra vịnh vậy. Một con cá chết trôi lềnh bềnh trên sóng, nổi những lốm đốm bạc.

Tôi biết màu xanh đó. Tôi đã từng nhìn thấy nó trên màn hình trong lúc huấn luyện. Mimic ăn đất, giống như con giun đất vậy. Nhưng không giống như giun đất, đất sau khi qua ruột nó và thải ra thì trở thành chất độc đối với sinh vật khác. Vùng đất bị lũ Mimic ăn chết dần và trở thành sa mạc. Nước biển thì chuyển thành màu xanh nhờ nhờ như sữa.

“Hổng có giống thủy triều ông hay thấy chi hết.”

Một tiếng hét chói tai vang vọng giữa không trung. Da đầu tôi run lên trước âm thanh quen thuộc.

Lông mày vẫn đang nhíu lại, cái đầu của ông cụ bay lên không và vẽ thành hình vòng cung. Những mảnh thịt vụn từ hàm và cổ nhuộm đỏ chiếc mũ rơm của cô bé. Cô bé vẫn chưa nhận ra chuyện gì đã xảy ra. Một mũi giáo lao ra từ bên trong cơ thể con Mimic với vận tốc một ngàn hai trăm mét trên giây. Hộp sọ của ông cụ bay ra còn trước cả khi âm thanh xé gió của mũi giáo kịp truyền vào tai chúng tôi. Cô bé từ từ ngẩng đầ lên.

Lại một mũi giáo nữa xé không lao tới. Trước khi đôi mắt to tròn và đen láy kia kịp nhìn thấy cảnh ông mình đã chết thì ngọn giáo đã đâm xuyên qua cô bé, không chút từ bi mà cũng chẳng thù hằn.

Cơ thể nhỏ bé kia bị xé tan nát.

Trước quán tính từ cú đâm, cái xác không đầu của ông cụ chao đảo. Một nửa cơ thể ông giờ nhuộm một màu đỏ thẫm. Chiếc mũ rơm quay mòng mòng trong gió. Cơ thể tôi giật nảy lên. Tôi không tài nào di chuyển được.

Một cái xác sưng phồng của một con ếch lềnh bềnh trên mép mặt nước.

Bờ biển này chắc chắn là nằm trong phạm vi phòng ngự của UDF. Tôi chưa từng nghe thấy báo cáo nào nói có con tàu tuần tra nào bị chìm cả. Căn cứ nơi tiền tuyến vẫn sừng sững tại đó. Không thể nào có Mimic ở đây được. Hai cái xác nằm bên cạnh tôi đây có khi còn bật dậy mà tranh cãi nếu họ có thể. Nhưng họ đã chết rồi, chết ngay trước mắt tôi. Và tôi, hy vọng duy nhất của họ đã đào ngũ khỏi đơn vị quân sự duy nhất tại khu vực này có thể ngăn chặn được cuộc xâm lăng.

Tôi chẳng có vũ khí. Dao, súng, Chiến giáp –– chúng đều ở chỗ căn cứ cả rồi. Khi tôi băng qua cánh cổng một giờ trước, tôi đã để lại hy vọng duy nhất để phòng ngự lại sau lưng. Ba mươi mét để tới ụ súng 57mm gần nhất. Vẫn có thể chạy lại được. Tôi biết cách bắn súng, nhưng còn cái lớp bạt phủ bên trên nữa. Tôi sẽ chẳng bao giờ có đủ thời gian để gỡ nó xuống. Gắn thẻ ID vào trong khe, nhập mật khẩu, nạp một dây đạn dài ba mươi cây số, gỡ cái khóa cổ ra nếu không nòng súng sẽ không chịu di động và thế thì tôi không thể nhắm, nhảy lên ghế ngồi, túm lấy tay cầm rỉ sét –– chết tiệt. Bắn đi, mẹ kiếp! Bắn!

Tôi biết sức mạnh của lũ Mimic. Chúng còn nặng hơn gấp mấy lần so với một tay lính Chiến giáp vũ trang đầy đủ. Về kết cấu thì chúng tương đối giống loài sao biển. Bộ xương trong nằm ở ngay dưới da, và cần những viên đạn xuyên giáp 50mm hoặc mạnh hơn thế nữa để đâm thủng nó. Chúng lăn qua người bạn như chiếc máy cắt cỏ lăn qua ụ đất ấy.

“Khốn kiếp.”

Ngọn giáo đầu tiên đâm xuyên qua đùi tôi.

Cái thứ hai khoét một vết thương đằng sau lưng.

Tôi chẳng còn thời gian để để ý tới cái thứ ba khi mà còn phải cố ngăn cho nội tạng không trào ngược lên cổ.

Tôi ngã xuống.


7[]

Cuốn tiểu thuyết tôi đang đọc dở nằm bên cạnh gối. Yonabaru đang ngồi đếm chồng đơn tự thú ở giường trên.

“Keiji, kí vào đây.”

“Hạ sĩ, anh có súng ngắn đúng không?”

“Ừ.”

“Cho em mượn xem qua chút.”

“Từ khi nào mà chú mày thành tay nghiện súng vậy?”

“Không phải vậy mà.”

Tay anh ta rụt lại. Khi nó thò ra, nó mang theo một cục kim loại màu đen lấp lánh.

“Nó được lên đạn rồi, nên cẩn thận đừng chĩa lung tung đấy.”

“Uh, được rồi.”

“Nếu chú mày thăng lên hạ sĩ, chú mày có thể mang theo đồ chơi riêng về giường mà chẳng ai nói gì được. Súng bắn bi như cái này dù sao cũng chẳng làm gì được bọn Mimic. Thứ duy nhất mà một người lính chiến giáp cần là khẩu 20mm và ống phóng tên lửa với ba quả tên lửa. Cái quả chuối mang theo để ăn trưa này không tính. Giờ chú mày kí được chưa?”

Tôi đang loay hoay mở chốt an toàn của khẩu súng để trả lời.

Tôi há miệng ngậm lấy nòng súng, tưởng tượng rằng viên đạn 9mm kia đang nằm trong ổ đạn, chờ đợi kim hỏa chích nổ.

Tôi kéo cò.


====8 ====


Cuốn sách tôi đang đọc dở đang nằm bên cạnh gối. Tôi thở dài.

“Keiji, kí vào này.” Yonabaru thò đầu ra từ giường trên.

“Thưa ngài, rõ.”

“Nghe này. Chiến dịch ngày mai chẳng có gì đâu. Cứ lo lắng quá và chú sẽ trở thành một cái bị thịt –– cuối cùng là mất thần hồn trước khi bọn chúng kịp thổi bay óc chú ra.”

“Em không có lo lắng mà.”

“Này cậu nhóc, có gì đáng xấu hổ đâu cơ chứ. Lần đầu ai mà chả lo lắng. Y như lần đầu quan hệ ấy. Nếu chưa làm xong việc, chú mày sẽ chẳng thể nào quẳng nó ra khỏi đầu được. Tất cả những gì chú mày cần làm là chờ thời gian trôi đi.”

“Em không đồng ý.”

“Này, chú mày đang múa rìu qua mắt thợ đấy.”

“Sẽ ra sao nếu –– chỉ giả sử thôi –– anh cứ lặp đi lặp lại lần đầu của mình?”

“Chú mày moi đâu ra cái đó thế?”

“Chỉ giả sử thôi mà. Cứ như chơi cờ vua ấy. Đi hết lượt của anh, rồi mọi chuyện lại quay trở lại nước ban đầu.”

“Còn tùy.” Vẫn nằm trên giường trên, ngửa mặt lên nhìn trần nhà. “Tùy xem chú mày đang bàn về chuyện phang phập hay oánh nhau.”

“Không có phang phập gì ở đây hết.”

“Chà, nếu họ bắt anh mày quay lại đánh nhau ở Okinawa, anh sẽ bảo họ tự đi mà đánh. Họ thích thì cứ đưa anh tới giàn hỏa thiêu, nhưng đừng hòng bắt anh quay lại.”

Nếu như anh không có lựa chọn thì sao? Nếu như anh cứ phải liên tục chấp hành lại nhiệm vụ đó?

Vào cuối ngày, mỗi người đều phải xách ba lô lên mà đi. Không có ai cho bạn tự quyết định hết. Và dù có gặp tình huống gì thì nó cũng dẫn tới kết quả mà bạn đã lựa chọn. Giả sử mọi người đều có ngân hàng lựa chọn giống nhau. Nếu một gã có được con bài tẩy, vậy sẽ phải có một gã bốc phải cứt. Đôi lúc bạn gặp phải kết cục chết chóc. Nhưng mỗi bước bạn đi trên con đường dẫn tới kết cục đó đều phụ thuộc vào chính bạn. Dù họ có buộc bạn lên giá treo cổ thì bạn vẫn có cơ hội ưỡn ngực lên gặp tử thần hoặc đi tới kiếp sau.

Nhưng tôi không có cơ hội đó. Có khi ở bên kia Tateyama có một thác nước khổng lồ, bờ vực của cả thế giới, và tôi chẳng thể nào biết được. Cứ mỗi ngày tôi lại đi đi lại lại giữa căn cứ và chiến trường, nơi tôi bị nghiền nát như con gián trên sàn nhà. Trong khi những cơn gió vẫn thổi, tôi lại được sinh ra, rồi lại chết. Tôi không được phép mang theo gì tới kiếp sau. Thứ duy nhất tôi giữ lại được là nỗi cô đơn cùng sự sợ hãi mà không ai hiểu được, và cái cảm giác của cò súng tựa vào ngón tay.

Thế giới thật điên rồ, với những luật lệ thật điên khùng. Mẹ kiếp nó chứ.

Tôi rút một cây bút ở bên cạnh gối và ghi số “5” vào mu bàn tay trái. Cuộc chiến của tôi bắt đầu bằng con số này.

Để xem tôi có thể kéo theo bao nhiêu thứ đây. Vậy nếu thế giới vứt cả đống cứt cho tôi thì sao? Tôi sẽ ngụp lặn trong đó để tìm đường sống. Tôi sẽ né những viên đạn của kẻ thù trong đường tơ kẽ tóc. Tôi sẽ xẻ đôi Mimic chỉ bằng một đòn. Nếu Rita Vrataski là một nữ thần trên chiến trường, tôi sẽ ngồi xem và học hỏi cho tới khi tôi sánh ngang với cô ta. Thứ gì chứ thời gian thì tôi không thiếu.

Có cách nào hay hơn đâu.

Ai mà biết? Có khi chuyện sẽ thay đổi. Hoặc có lẽ tôi sẽ tìm ra cách để phá tan cái thế giới này rồi cười vào mặt nó.

Với tôi thế cũng được.


Chương 2: Trung sĩ Ferrell[]

1[]

“Nếu một con mèo có thể bắt chuột,” một Hoàng đế Trung Hoa từng nói, “đó là một con mèo giỏi.”

Rita Vrataski là một con mèo rất giỏi. Cô ta giết đủ phần của mình và được thưởng công xứng đáng. Ngược lại, tôi, một con mèo hoang ghẻ lở đờ đẫn lạc vào chiến trường, đã sẵn sàng để bị lột da, moi ruột và biến thành một cái vợt tennis. Thượng cấp luôn đảm bảo Rita được chải chuốt chỉnh tề, nhưng đừng hòng họ để một nửa con mắt tới chúng tôi.

Buổi tập thể hình đã kéo dài ba giờ đồng hồ rồi, và tất nhiên là nó có kèm theo bài tập chống đẩy tổng hợp như cứt rồi. Tôi quá tập trung để nghĩ xem mình phải làm gì tiếp theo nên chẳng có thời gian mà để ý tới bất kỳ cái gì lúc này. Sau nửa tiếng, Lực lượng Đặc chủng Hoa Kỳ từ bỏ việc chiêm ngưỡng màn khổ hình của chúng tôi và quay trở lại doanh trại. Tôi cố gắng không nhìn Rita, và cô ta bỏ đi cùng với những người khác, bỏ mặc tôi trên chuyến hành trình dài. Cứ như một đoạn mã lập trình vòng lặp nếu/thì vậy:


Nếu Ritathamgiatậpthểhình =đúng, thì kết thúc.

Nếu không tiếp tục vòng lặp: Chốngđẩytổnghợpchếttiệt

(Vòng lặp if/then trong lập trình Pascal)


Có lẽ đây là bằng chứng cho việc tôi có thể thay đổi tương lai. Nếu tôi nhìn chằm chằm vào Rita, cô ta sẽ tham gia tập thể hình, và bài tập sẽ kết thúc sau một tiếng. Thượng cấp có thể đùng một phát phát động đợt tập thể hình này; họ cũng có thể kết thúc nó theo cách tương tự.

Nếu tôi đoán đúng, tình huống của tôi vẫn chưa tới mức hoàn toàn tuyệt vọng. Một cánh cửa hy vọng có thể xuất hiện trong trận chiến ngày mai. Xác suất khiến nó xuất hiện hẳn là 0.1 %, hoặc thậm chí 0.01%, nhưng nếu tôi có thể tăng cường các kĩ năng chiến đấu dù chỉ một chút ­­–– nếu cánh cửa kia hé ra dù chỉ một tí ti –– tôi sẽ tìm cách ép cho nó mở toang ra. Nếu tôi có thể luyện tập để nhảy qua mọi vật cản trên đường đua mà tử thần thiết đặt, có lẽ một ngày nào đó tôi có thể thức giấc tại một thế giới có ngày mai.

Lần tới tôi chắc chắn sẽ nhìn Rita trong buổi thể hình. Tôi có hơi mặc cảm tội lỗi khi kéo cô ta vào chuyện này, cô ta chỉ đơn giản là một người qua đường trong show truyền hình solo không có điểm dừng này. Nhưng tôi cũng chả có nhiều lựa chọn. Tôi không có cả mớ thời gian để tăng cường cơ bắp, thứ chẳng thể đưa tới vòng lặp tiếp theo. Thời gian đó tốt nhất là nên dùng để lập trình bộ não của tôi cho trận chiến.

Khi buổi luyện tập cuối cùng cũng kết thúc, những người đàn ông trên chiến trường chạy như bay về doanh trại để tránh cái nóng mặt trời, lèm bèm chửi rủa cùng thở dốc. Tôi đi tới chỗ Trung sĩ Ferrell, anh ta lúc này đang cúi xuống buộc lại dây giày. Anh ta đã trụ lại trên chiến trường lâu hơn bất cứ ai, nên tôi quyết định anh ta sẽ là điểm xuất phát tốt nhất để hỗ trợ cho phần mềm luyện tập chiến đấu của tôi. Không chỉ đơn giản là người sống sót lâu nhất trong tiểu đội, tôi cảm thấy hai mươi phần trăm trung sĩ huấn luyện mà anh ta có chắc là sẽ hữu dụng.

Bức xạ nhiệt tỏa ra trên mái đầu đinh cắt bằng của anh ta. Dù là sau ba tiếng tập thể hình, anh ta vẫn trông đầy năng lượng cứ như thể có thể tiếp tục chạy marathon và đứng vị trí đầu mà chẳng thèm đổ một giọt mồ hôi. Anh ta có một vết sẹo kì dị trên cái cổ dày, một dấu tích từ thời họ còn đang sửa lỗi cho những chiếc Chiến giáp và phải gắn chíp vào để tăng cường thời gian phản ứng của người lính. Cái thời họ phải nhờ cậy tới biện pháp thô thiển đó cũng qua lâu rồi. Vết sẹo đó là một huân chương vinh dự –– hai mươi năm phục vụ tận tụy và vẫn còn hăng hái.

“Hôm nay lại bị phồng rộp chỗ nào à?” Ferrell vẫn không rời mắt khỏi đôi giày của anh ta. Anh ta lớn tiếng nói với cái điệu uốn lưỡi đúng chuẩn dân Brazil.

“Không.”

“Thế không dám ra trận à?”

“Sẽ là dối lòng nếu em nói em không sợ, nhưng em không định chạy trốn, nếu ý anh là vậy.”

“Với một tay lính mới chỉ vừa mới huấn luyện cơ bản xong thì chú mày cũng được đấy.”

“Anh vẫn định tiếp tục luyện tập phải không, trung sĩ?”

“Ờ.”

“Anh có phiền không nếu để em tập chung với?”

“Chú đang đùa đấy à, Binh nhất?”

“Không có gì buồn cười ở đây hết, thưa ngài.”

“Chà, cái đầu chú quả thật quá là buồn cười nếu chú mày muốn chui đầu vào trong mấy cái Chiến giáp chết tiệt kia ngay trước ngày chúng ta đi tự sát tập thể. Chú mày muốn đổ mồ hôi thì đi mà tìm gái mà luyện tập.” Đôi mắt Ferrell vẫn nhìn trên dây giày. “Từ chối.”

“Trung sĩ? Với tất cả lòng tôn trọng, em chưa thấy anh theo đuổi cô nàng nào.”

Cuối cùng Ferrell cũng ngẩng đầu dậy. Đôi mắt ẩn dưới hai hàng lông mày trên khuôn mặt dày và ngăm ngăm của anh ta như hai nòng súng trường 20mm bắn ra những viên đạn trái phá vào người tôi. Tôi như bị nướng chín dưới sự âu yếm của ông mặt trời.

“Ý chú mày bảo là mày nghĩ anh là một thằng đần thích rúc đầu vào Chiến giáp nhầy nhụa mồ hôi hơn là rúc vào háng phụ nữ à? Ý chú là thế đúng không?”

“Ý-ý em không phải là thế, thưa ngài!”

“Được rồi, vậy thì ngồi đi.” Anh ta vươn tay vuốt tóc rồi chỉ xuống đất.

Tôi ngồi xuống. Cơn gió từ biển khơi thổi qua hai người chúng tôi.

“Anh đã từng ở Ishigaki, chú mày biết đấy,” Ferrell bắt đầu. “Bèo cũng phải chục năm trước. Chiến giáp lúc đó rẻ như bèo. Hồi đó cái chỗ gần xương chậu –– ngay chỗ này này –– nơi đó giáp vẫn còn chưa khớp với nhau. Chúng cọ vào da của chú mày. Và cái nơi bị đóng vảy trong luyện tập kia sẽ lại cọ xát khi chú mày ra chiến trường. Đau tới mức vài gã còn không muốn bò trên nền đất. Họ đều đứng thẳng và chạy một mạch vào giữa chiến trường. Chú mày có thể nói với họ rằng họ chỉ đâm đầu vào chỗ chết, nhưng luôn có vài gã sống sót đi ra. Y như việc có cái bia nhắm sơn trước ngực họ rồi chạy loăng quăng ấy.” Ferrell rít lên cứ như một vỏ đạn rơi. “Whap! Cả đống thằng chết theo cách đấy.”

Ferrell mang trong mình dòng máu lai giữa Nhật Bản và Brazil, nhưng anh ta lại tới từ Bắc Mỹ. Một nửa đại lục đó đã bị Mimic tàn phá. Ở đây, tại Nhật Bản, nơi đồ công nghệ cao còn rẻ hơn cả thức ăn, những chiếc Chiến giáp của chúng tôi chỉ đơn giản là những cỗ máy. Dù vậy, vẫn có nhiều quốc gia mà tất cả những gì họ có thể làm là đưa lính ra chiến trường với một cái mặt nạ chống khí độc, một khẩu súng phóng lựu lỗi thời loại tốt, và một bài kinh cầu nguyện. Quên chuyện pháo binh hay không quân đi. Mọi chiến thắng họ gặt hái được đều chẳng kéo dài được lâu. Những con nanobot chui ra từ trong xác Mimic sẽ gặm nhấm phổi của bất kỳ người lính nào còn sống sót. Và vì vậy, từng chút một, những hoang mạc hoang vu cứ xâm thực lấy những vùng đất nơi từng được gọi là nhà.

Ferrell đến từ một gia đình nông dân. Khi mùa màng của họ bắt đầu thất bát, họ chọn cách từ bỏ đất của mình và đi tới một trong những hòn đảo tại phương Đông, nơi được bảo vệ an toàn bởi những kỳ quan của công nghệ. Những gia đình có người phục vụ trong UDF được cấp phép nhập cư, đó là lý do Ferrell tham gia Lực lượng Nhật Bản.

Những “Người lính Nhập cư” đó thường thấy tại Lực lượng Bộ Binh Vũ trang.

“Chú mày đã từng nghe tới kiri-oboeru chưa?”

“Cái gì vậy?” Tôi hỏi, giật cả mình khi nghe thấy tiếng Nhật.

“Đó là một câu nói của Samurai từ thời xưa, nghĩa là ‘Hạ gục kẻ thù, rồi học hỏi.’ “

Tôi lắc đầu. “Nghe lạ tai quá.”

“Tsukahara, Bokuden, Itou, Miyamoto Musashi –– họ đều là những samurai nổi tiếng vào thời của họ. Chúng ta đang kể về chuyện năm trăm năm trước đấy.”

“Em nghĩ em đã từng đọc truyện tranh về Musashi một lần rồi.”

“Bọn trẻ chết tiệt. Chúng sẽ không bao giờ biết tới Bokuden từ Batman.” Ferrell thở dài đầy bực dọc. Ngồi đây là tôi, mang trong mình dòng máu Nhật Bản thuần chủng, và anh ta còn biết nhiều về lịch sử quê hương tôi còn hơn cả tôi. “Samurai là những chiến binh kiếm sống bằng cách chiến đấu, cũng như chú mày và anh ấy. Chú mày nghĩ những samurai anh vừa kể tên đã giết bao nhiêu người trong đời?”

“Em không biết. Nếu tên của họ vẫn còn được biết tới sau năm trăm năm, vậy hẳn là... mười hoặc hai mươi?”

“Trật cả dặm. Ghi chép từ thời đó còn rất đơn sơ, nhưng số lượng thì chắc khoảng từ ba tới năm trăm. Mỗi người. Họ còn chẳng có súng. Họ cũng không có bom. Mỗi người đàn ông họ giết đều là trong những trận chiến vũ-khí-lạnh-chết-tiệt. Anh nghĩ thế là quá đủ để trao một hai cái huy chương gì đó.”

“Sao mà họ làm được?”

“Mỗi tuần đưa một người tới thế giới bên kia, liên tục như vậy trong mười năm, chú mày sẽ có năm trăm. Đó chính là lý do họ được biết dưới cái danh bậc thầy kiếm thuật. Họ không chỉ giết một người và rồi ngừng lại. Họ tiếp tục. Và họ trở nên mạnh hơn.

“Nghe như trò chơi điện tử ấy. Anh càng giết nhiều, anh càng mạnh hơn –– kiểu kiểu thế đúng không? Cứt thật, em phải nỗ lực nhiều để bù đắp chênh lệch kinh nghiệm đây.”

“Giống như vậy đấy, ngoại trừ việc đối thủ của họ không phải là những tay mơ không được huấn luyện hay những con quái vật ảo ngoài hành tinh. Những người bị họ xẻ đôi là những con người sống, với máu và thịt. Những người đàn ông đánh nhau vì mạng sống của họ, cũng như những người khác. Nếu họ muốn sống, họ phải phải khiến kẻ thù chủ quan, đặt bẫy, và thỉnh thoảng phải vắt chân lên cổ mà chạy.”

Không phải là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong đầu bạn mỗi khi bạn nghĩ tới những bậc thầy kiếm thuật đâu.

“Học được những điều khiến chú mày chết nhảm và cách để khiến kẻ thù chết nhảm –– cách duy nhất để biết được những điều đó là tự tay làm nó. Mấy thằng nít ranh học vung kiếm trong võ đường thì đừng hòng mà trụ được trước một gã được tôi luyện trong các trận chiến. Họ biết được, và họ cứ tiếp tục làm. Đó là cách họ xếp được một núi xác chết. Mỗi lần một cú vung kiếm.”

Kiri-oboeru.”

“Đúng vậy.”

“Vậy sao họ còn phải bỏ công ra luyện tập cho bọn em?”

“Ồ, vào ngay trọng tâm vấn đề luôn. Với đầu óc như vầy thì chú mày quá thông minh để làm một người lính đấy.”

“Nói tiếp đi, Trung sĩ.”

“Nếu chú mày thực sự muốn chiến đấu với Mimic, chú mày cần tới trực thăng hoặc xe tăng. Nhưng trực thăng thì đắt, và cũng tốn cả ối tiền để huấn luyện phi công. Và xe tăng thì một tí ti tác dụng cũng không có trên cái địa hình này –– quá nhiều núi non sông suối. Nhưng Nhật Bản thì đông lúc nhúc những người là người. Chính vì vậy họ tự bọc mình trong Chiến giáp và đưa tới tiền tuyến. Tìm đường sống trong chỗ chết.”

Xem chuyện gì xảy ra với ‘đường sống’ này.

“Mấy thứ họ nhồi nhét vào đầu chú mày trong huấn luyện là những tri thức tối thiểu. Họ đào một mớ lính mới từ cái chỗ khỉ ho cò gáy nào không biết và dạy họ không băng qua đường khi đèn đỏ. Nhìn trái, nhìn phải và giữ một cái đầu lạnh trước hoàn cảnh nóng. Những thằng khốn đen đủi nhất quên sạch sành sanh khi trận chiến nổ ra và chúng gục xuống tương đối nhanh. Nhưng nếu chú mày may mắn, chú mày có thể sống sót qua trận chiến và có lẽ còn học hỏi được chút gì đó. Cứ thưởng thức hương vị của trận chiến đầu tiên và học hỏi từ nó, chú mày sẽ có chút gì đó mà có thể được gọi là ––“ Ferrell dừng lại. “Có gì buồn cười à?”

“Hử?” Một nụ cười vừa vẽ ra trên mặt tôi khi anh ấy đang mải miết nói và tôi không hề để ý.

“Trước trận chiến mà lại cười kiểu ấy, anh bắt đầu lo không biết não chú mày có chập cheng chỗ nào không rồi đấy.”

Tôi đang mải nghĩ tới trận chiến đầu tiên của tôi, khi Wargarita Điên loạn cố giúp tôi, khi ruột non dính đầy bùn của tôi bị đốt thành than, khi tuyệt vọng và sợ hãi ào ào thác đổ trút xuống người tôi. Keiji Kiriya đã là một trong những thằng khốn đen đủi. Hai lần.

Lần thứ ba, khi tôi chạy trốn, cái số nó cũng chẳng may được hơn là bao. Nhưng không biết vì lý do gì, thế giới vẫn cứ tiếp tục cho tôi thêm cơ hội khác, thách thức tôi tìm ra cách để sinh tồn. Không phải nhờ may mắn, là nhờ vào chính mình.

Nếu tôi có thể vượt qua được khát khao chạy trốn, tôi sẽ tiếp tục thức dậy rồi huấn luyện cả ngày, sau đó là một ngày ra trận. Và còn chuyện gì tuyệt hơn vậy nữa? Gần như mặc định, tôi sẽ tiếp tục học hỏi, mỗi lần một nhát chém. Thứ một kiếm sĩ tốn mười năm, tôi chỉ cần trong một ngày.

Ferrell đứng dậy và vỗ một phát vào lưng tôi, cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. “Giờ lo lắng chuyện đó cũng chẳng giải quyết được gì. Sao chú mày không đi mà tìm bạn tình ấy?”

“Em ổn, trung sĩ, em chỉ đang nghĩ ––“ Ferrell ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục. “Nếu em sống sót sau trận chiến ngày mai, sẽ lại có một trận chiến khác sau đó, đúng không? Và nếu em sống sót qua trận chiến đó, em lại tiếp tục một trận chiến khác. Nếu em học hỏi được những kĩ năng cần thiết sau mỗi trận chiến, và giữa những trận chiến em luyện tập trong môi trường giả lập, xác suất sống sót của em sẽ tiếp tục tăng lên. Đúng không?”

“Chà, nếu chú mày muốn phân tích sâu hơn ––“

“Tự dưng nổi hứng huấn luyện chắc là không có vấn đề gì đúng không?”

“Chú mày quả nhiên không chịu từ bỏ dễ dàng nhỉ?”

“Chẹp.”

Ferrell lắc đầu. “Nói thật, chú mày khiến anh có cảm giác rất khác biệt. Có lẽ anh mày đã quá già rồi.”

“Khác biệt thế nào?”

“Nghe này, có ba loại người trong UDF: bọn xì ke sắp chết đến nơi, những người nhập ngũ để kiếm cái ăn, và những người hụt chân ở đâu đó và bước nhầm vào UDF.”

“Em đoán anh xếp em vào nhóm cuối cùng.”

“Chuẩn đấy.”

“Thế anh thuộc nhóm nào, Trung sĩ?”

Anh ta nhún vai. “Mặc trang bị cấp một vào. Quay trở lại đây sau mười lăm phút.”

“Rõ –– uh, đầy đủ trang bị luôn ạ?”

“Lính chiến giáp thì tập thế quái nào nếu không có trang thiết bị. Đừng có lo, anh mày sẽ không dùng đạn thật đâu. Mặc đồ vào đi!”

“Thưa ngài, rõ!”

Tôi hành lễ, với đầy đủ lòng kính trọng.

* * *

Cơ thể con người quả thực là một cỗ máy buồn cười. Khi bạn muốn di chuyển một bộ phận –– ví dụ cánh tay đi –– não bộ sẽ gửi cùng một lúc hai tín hiệu: “Mạnh lên!” và “Yếu đi!” Hệ điều hành chịu trách nhiệm vận hành cơ thể tự động kiềm hãm một chút sức lực lại để ngăn không cho cơ thể vận hành quá sức và tan nát. Không phải cỗ máy nào cũng được trang bị hệ thống an toàn như vậy đâu. Giả dụ cho một cái xe mất phanh lao thẳng vào một bức tường, nó sẽ đâm sầm vào tường cho đến khi động cơ bị hủy hoặc hết xăng.

Võ thuật sử dụng toàn bộ sức lực của cơ thể một cách có chủ ý. Trong luyện võ, bạn vừa đấm vừa hét. Lệnh “Hét to lên!” sẽ chép đè lên lệnh “Yếu đi!”. Luyện tập đầy đủ và bạn sẽ có thể giảm bớt lượng sức mạnh mà cơ thể bạn giữ lại. Nói cách khác, bạn học cách để chuyển hóa sức mạnh cơ thể hòng tự hủy diệt chính nó.

Một người lính và chiếc Chiến giáp của anh ta hoạt động với cơ chế tương tự. Cũng như cơ thể con người có cơ chế hòng kìm hãm bớt năng lượng, Chiến giáp cũng có hệ thống để giữ cho năng lượng luôn ở mức cân bằng. Với một cái nắm tay chứa 370 kí lô lực lượng, một chiếc Chiến giáp có thể dễ dàng nghiền nát một khẩu súng trường chứ đừng nói tới xương người. Để ngăn những tai nạn kiểu kiểu đó không xảy ra, Chiến giáp được thiết kế để tự động tiết chế lực lượng, và thậm chí chủ động kháng cự quán tính để giữ cân bằng trong vận chuyển lực lượng. Giới kĩ thuật gọi hệ thống này là ‘tự động cân bằng’. Hệ thống tự động cân bằng trì hoãn hoạt động của hệ thống vận hành Chiến giáp khoảng vài phần giây. Khoảng thời gian kia bé tới mức phần lớn mọi người chẳng ai thèm để ý. Nhưng trên chiến trường, tí ti thời gian kia quyết định sự khác biệt giữa sống và chết.

Trong ba trận chiến với mười ngàn Chiến giáp mỗi trận, chỉ có một gã đen đủi gặp phải vấn đề với tự động cân bằng, và tự động cân bằng quyết định nấc cụt ngay khi Mimic đang bổ xuống đầu bạn thì coi như xong. Xác suất vô cùng bé, nhưng chẳng ai muốn trở thành thằng ngu đen đủi bốc phải quân Joker. Chính vì vậy, ngay khi bắt đầu mỗi trận chiến, những tay kỳ cựu như Ferrell luôn tắt hệ thống tự động cân bằng đi. Họ không hề dạy chúng tôi chuyện này trong huấn luyện. Tôi phải học cách bước đi khi hệ thống tự động cân bằng bị tắt. Ferrell nói tôi phải có năng lực di chuyển mà không suy nghĩ.

Phải mất bảy lần thử thì tôi mới đi cho thẳng được.


2[]

Hai lính gác sừng sững đứng trên con đường dẫn tới khu vực nằm trong phạm vi quyền hạn của Hoa Kỳ. Họ trông rất đồ sộ, mỗi gã mang một khẩu súng trường năng lượng cao trong tay, chúng to bằng cả bắp chân của tôi.

Hình thể của họ khiến họ trông như những bộ giáp được đem đi trưng bày vậy. Người đi ngang qua nhìn phát là biết ngay ai đang làm nhiệm vụ mà chẳng cần họ nói một lời. Kể cả bom bi có rải như mưa từ trên trời xuống thì những gã này vẫn sẽ trụ trên mặt đất, không chút chớp mắt cho tới khi họ nhận được mệnh lệnh trực tiếp yêu cầu đi làm việc khác.

Nếu bạn không thèm để họ vào mắt và đi thẳng tới cổng chính, bạn sẽ đi trên con đường mà tôi đã đi khi tôi cố đào ngũ trong vòng lặp thứ ba. Chạy trốn thì dễ thôi. Với những gì tôi học được, tôi hẳn có thể né được cuộc tập kích của Mimic và đi thẳng tới Thành phố Chiba. Nhưng hôm nay tôi có mục tiêu khác.

Giờ là 10:29. Tôi đang đứng trong điểm mù của hai gã lính gác. Với sải chân tám mươi phân của tôi, hai gã lính cách tôi chính xác mười lăm giây.

Một con mòng biển bay qua đầu. Tiếng gầm xa xa của đại dương hòa lẫn cùng âm thanh hỗn tạp trong căn cứ. Cái bóng của tôi nhỏ nhoi và lẻ loi bám dưới chân. Chẳng có ai khác trên đường.

Một chiếc xe chở nhiên liệu từ Mỹ chạy ngang qua. Hai gã lính gác thi lễ chào.

Tôi phải căn thời gian đi sao cho chuẩn.

Ba, hai, một.

Chiếc xe tải đâm đầu vào giữa màn sương mờ trên đường. Một bà cụ lao công mang theo dẻ lau đang đứng ngay trước chiếc xe tải. Phanh xe rít lên. Động cơ xe chết cứng. Hai gã lính quay về hướng chấn động, họ lơi là cảnh giác chỉ trong giây lát.

Tôi liền bước đi.

Tôi có thể cảm nhận được hơi nóng phả ra sau lớp vải dày. Với cơ bắp như vậy, tôi không hề nghi ngờ chuyện họ có thể thọc tay vào đít tôi và rút xương sống ra. Trong khoảnh khắc, lòng tôi dậy lên khát khao phi lý trí muốn rút roi ra quật vào người họ.

Tất nhiên rồi, tao có lẽ trông như gió thổi phát là đổ, nhưng chúng mày đừng có nhìn mặt mà bắt hình dong. Muốn thử với tao à? Ai mà thèm để mắt tới một tay lính mới dân Châu Á bé con con cơ chứ?

Liệu những kĩ năng mình học được trong điều khiển Chiến giáp có thể chuyển thành kĩ năng cận chiến tay không trước con người không nhỉ? Liệu mình có mạnh hơn chút nào không? Sao phải đợi lũ Mimic, sao không tự kiểm tra trước mấy con chuột bạch này nhỉ?

Gã lính gác bên phải quay lại.

Bình tĩnh. Giữ mặt lạnh như tiền. Hắn đang quay về bên trái. Khi hắn ta quay, mày sẽ lẩn vào điểm mù của gã lính gác còn lại. Ngay lúc hắn ta nhìn quanh quất tìm kiếm chút dấu vết của Keiji Kiriya thì mình đã hòa mình vào cảnh vật và mất hút.

“Mày có thấy gì không?”

“Trật tự đi. Đội trưởng đang nhìn đấy, và anh ấy trông chẳng vui vẻ gì đâu.”

“Fuck you.”

Và cứ như vậy, tôi đột nhập vào lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Mục tiêu của tôi là một chiếc Chiến giáp từ Hoa Kỳ. Sau vài vòng lặp, tôi đưa ra kết luận rằng tôi cần một vũ khí mới –– thứ mà quân Nhật Bản bọn tôi không có. Khẩu súng trường 20mm phổ thông không xi nhê là bao trước lũ Mimic. Chúng là thứ vũ khí đạt đến sự cân bằng trong số lượng đạn mà một người lính có thể mang theo, xác suất bắn trúng những đối tượng di chuyển với vận tốc cao và độ giật cho phép. Chúng mạnh hơn những vũ khí họ từng lưu hành, nhưng nếu bạn muốn đâm thủng bộ xương bên trong kia, 50mm là loại đạn duy nhất đảm bảo chắc chắn.

Chiến lược cơ bản của UDF là tuyển một đội bộ binh trọng giáp nằm bắn đạn 20mm để giảm tốc độ của kẻ thù đủ để pháo binh và xe tăng có thể hạ chúng. Trong lúc luyện tập, đội hỗ trợ không bao giờ tới đủ nhanh hay đủ mạnh. Rút cục chúng tôi phải tự thân tiêu diệt Mimic.

Thứ vũ khí được coi là giải pháp cuối cùng cho dân kỳ cựu, và cũng là cái mà tôi sử dụng là mũi khoan phản lực nằm trên vai trái. Bạn có thể khoét một lỗ và khoan thủng ruột một con Mimic với một trong những cục cưng kia. Súng phóng tên lửa đôi lúc cũng hữu dụng, nhưng thứ đó khó bắn trúng quá, và thông thường thì bạn sẽ hết tên lửa ngay lúc bạn cần chúng nhất. Khi tôi càng lúc càng quen thuộc với chiến trường, tôi phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của mũi khoan phản lực 57mm.

Nhưng khoan phản lực có một nhược điểm to lớn: Băng đạn chỉ có đúng hai mươi viên. Không như súng trường của chúng ta, bạn không thể thay đạn cho nó. Cái lúc bạn bắn xong viên thứ hai mươi thì cũng là lúc bạn xong đời. Nhiều nhất một người lính chỉ đục được tối đa hai mươi lỗ trên thứ gì đó. Một khi khoan phản lực hết đạn, bạn còn chẳng thể dùng nó để làm cái gì ra hồn. Người thiết kế ra Chiến giáp đơn giản là không hề cân nhắc tới khả năng có người sống đủ dai khi chiến đấu với Mimic để dùng hơn hai mươi viên.

Đm nó chứ.

Vì hết đạn mà tôi đã chết kha khá lần. Lại một kết cục chết chóc khác. Cách duy nhất để tránh nó là tìm một vũ khí cận chiến mà không hết đạn. Tôi đã từng thấy một cái trong cái trận chiến bắt đầu cả chuỗi vòng lặp này.

Rìu chiến. Rita Vrataski, một chiến thần Valkyrie trong Chiến giáp đỏ rực, cùng chiếc rìu của cô ta. Mà nói chính xác thì cái đấy phải gọi là một cục volfram cacbua dưới hình dạng của một chiếc rìu. Một chiếc rìu chiến hai lưỡi thì không thể hết đạn. Bạn vẫn có thể dùng nó khi nó bị bẻ cong. Nó nặng đến thế cơ mà. Đó quả thực là một vũ khí cận chiến tuyệt hảo.

Nhưng trên cái quả đất này, Keiji Kiriya vẫn là một thằng lính mới mà chưa từng thấy trận chiến đầu tiên. Nếu tôi nhờ họ thay mũi phản lực thông dụng bằng một vũ khí khác chỉ đơn giản là vì tôi không thích nó thì cứ ngồi mốc mặt mà chờ họ lắng nghe đi nhé. Yonabaru đã cười vào mặt tôi, và Ferrell thậm chí còn đấm tôi. Khi tôi cố thẳng thắn nói chuyện với chỉ huy trưởng của tiểu đội, hắn ta lờ tôi đi luôn. Tôi sẽ phải tự mình kiếm lấy thứ vũ khí tôi cần.

Tôi hướng tới doanh trại tại khu vực mà Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ đang trú ngụ. Năm phút sau khi sang bên phía căn cứ của quân Hoa Kỳ, tôi chạy tới chỗ chỉ có một người lính canh gác. Cô ấy đang vặn ốc bằng một cái cờ lê.

Cái mùi sốc của dầu máy nồng nặc trong không khí, át đi cả cái mùi mặn mặn từ đại dương. Mấy gã cứ vo ve như ruồi quanh căn cứ đã rút cả. Dưới bóng râm của doanh trại, thứ vũ khí kim loại mà loài người sử dụng để triệt hạ kẻ thù đang say ngủ.

Cô gái cầm cờ lê đó là Shasta Raylle, một kĩ sư thường dân. Lương của cô ta tối thiểu phải ngang ngửa một trung úy. Tất nhiên là cao hơn một thằng lính quèn như tôi rồi. Tôi liếc sơ qua hồ sơ về cô ta: cao 152 centimet; nặng 37 kilo; thị lực 20/300; thức ăn ưa thích, bánh trái cây. Cô ta chảy trong mình dòng máu Ấn Độ Hoa Kỳ và có mái tóc đen thắt lại thành bím.

Nếu Rita là một con mèo rừng đi lảng vảng kiếm mồi thì Shasta là một con thỏ, không trật đi đâu được. Cô ta đáng lẽ phải ở nhà, cuộn mình trong một căn phòng ấm áp và kín gió, xem vô tuyến và ngồi nhai kẹo, chứ không phải là bám đầy dầu mỡ ở một căn cứ quân sự thế này.

Tôi cố nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Xin chào.”

Shasta nhảy dựng lên khi nghe giọng tôi. Chết tiệt. Vẫn chưa đủ nhẹ nhàng.

Cặp kính dày của cô nàng rơi cái bịch xuống sàn. Nhìn cô nàng đi tìm kính cứ gà mắc tóc ấy. Thay vì thả cái cờ lê xuống và mò mẫm bằng cả hai tay thì cô nàng cứ quơ quơ trong tuyệt vọng chỉ bằng một tay. Không phải là chuyện mà bạn trông đợi từ một người tốt nghiệp hạng đầu trong lớp tại đại học MIT, phát triển những chiếc Chiến giáp quân sự đặc dụng nhất ngay trong luận văn đầu tiên về công nghệ phòng thủ quân sự, và rồi, theo một yêu cầu, nhảy vào UDF và trở thành kĩ sư xuất sắc cho một chiếc Chiến giáp đỏ rực làm từ thép súng.

Tôi cúi xuống và lượm kính hộ cô ấy –– trông nó giống hai cái kính lúp được gắn lại với nhau hơn.

“Cô làm rớt này,” Tôi nói, đưa cặp kính ra tại chỗ mà tôi hy vọng cô ấy có thể thấy.

“Cảm ơn, dù cho anh là ai.”

“Đừng để ý tới chuyện đó.”

Shasta nhìn tôi. Cặp đít chai khiến đôi mắt cô ấy trông như hai quả trứng gà chiên.

“Và anh là...?”

“Keiji Kiriya.”

“Cảm ơn, Keiji Kiriya. Tôi là Shasta Raylle.” Tôi cố tình không nhắc tới quân hàm cùng tiểu đội của tôi. Shasta cúi đầu xuống. “Tôi để ý thấy nơi này có vẻ giống như một doanh trại giản đơn thông thường –– chà, mà nó đúng là vậy, nhưng đó không phải điểm trọng yếu. Điểm trọng yếu ở đây là, nó chứa đựng những công nghệ quân sự vô cùng nhạy cảm. Chỉ có những người có quyền hạn nhất định mới được phép đi vào thôi.”

“Tôi biết. Tôi chẳng muốn gia nhập đâu.”

“Ồ. Được! Tôi mừng là chúng ta rạch ròi được chuyện đó.”

“Thực ra,” Tôi bước tới một bước và nói, “Tôi tới đây để tìm cô.”

“Tôi á? Tôi-tôi rất vui, nhưng tôi e rằng tôi không thể –– ý tôi là, anh có vẻ là một người tốt, chỉ là tôi không nghĩ chuyện này sẽ thích hợp, và vẫn còn những công việc phải chuẩn bị cho ngày mai, và ––“

“Giờ còn chưa tới trưa mà.”

“Nó sẽ tốn cả ngày!”

“Cô bình tĩnh nghe tôi nói đã ––“

“Tôi biết rằng trông có vẻ như tất cả những gì tôi đang làm chỉ là tháo dỡ và lắp lại bộ phận này –– chà, và quả thực là vậy, nhưng tôi đang thực sự bận. Rất bận!” Bím tóc của cô nàng đung đưa khi cô ta tự gật đầu, nhấn mạnh sự thành thật của bản thân.

Cô ta hiểu nhầm rồi. Phải cho mọi thứ về lại quỹ đạo thôi––

“Vậy bộ nhớ ngoài của bộ chiến giáp này đã bị hỏng à?”

“Ừ đúng, nhưng –– sao anh biết được?”

“Này, cả tôi và cô đều biết rằng bộ nhớ ngoài cũng không được sử dụng nhiều trong chiến đấu. Nhưng vì những con chip đặc hiệu này chứa cả tấn công nghệ quân sự nhạy cảm, cô sẽ phải hoàn thành cả núi công việc để thu hồi lại một cái, tôi nói đúng chứ? Và cái gã con hoang trọc lông lốc ở xưởng vũ khí cứ bám lấy cô dù cô đã nói với hắn ta không biết bao nhiêu là lần rằng cô không có hứng thú, tôi đoán vậy. Nó gần như đủ để khiến cô cân nhắc tới chuyện trộm lấy một cái từ một trong những bộ Chiến giáp của Quân Nhật Bản.”

“Trộm lấy một–– tôi chưa từng nghĩ tới chuyện đó luôn nhé!”

“Không á?”

“Tất nhiên là không rồi! Chà, thỉnh thoảng ý nghĩ đó lại lóe lên trong đầu tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ thực sự làm chuyện đó! Tôi trông giống hạng người––“ Đôi mắt cô nàng mở to ra khi cô ấy thấy thứ nằm trong cái túi được buộc kín mà tôi lôi ra từ túi quần.

Tôi nở một nụ cười ranh mãnh. “Nếu như có ai đó đã trộm một cái cho cô?”

“Cho tôi cái đó nhé? Làm ơn?”

“Xem ai thay đổi thái độ 180 độ kìa!”

Tôi giơ cái túi chứa con chíp lên cao quá đầu. Shasta loi choi nhảy lên để cố túm lấy nó, nhưng với chiều cao 158 centimet thì chuyện đó hẳn là vô vọng rồi. Mùi dầu máy dính trên áo quần cô ta làm sống mũi tôi cay cay.

“Đừng có trêu tôi nữa, đưa cho tôi đi mà?”

Nhảy. Nhảy.

“Cô không biết tôi vất vả thế nào mới lấy được thứ này đâu.”

“Tôi cầu xin anh mà. Làm ơn đi?”

Nhảy.

“Tôi sẽ đưa cho cô, nhưng phải có thứ gì đổi lại chứ.”

“Thứ gì đó.... đổi lại?”

Ực.

Cô nàng túm chặt lấy cái cờ lê vào trước ngực, đè lên hai cặp núi đôi ẩn sau lớp áo khoác. Cô ấy rõ ràng đã quen với việc đóng vai nạn nhân sau nhiều năm sống chung cùng lũ thú tại Lực lượng Đặc nhiệm. Trêu được cô nàng dễ như vầy khiến tôi không thể nào trách được họ.

Tôi vẩy vẩy cái túi bóng về phía chiếc rìu chiến khổng lồ treo trên lồng ở phía sau doanh trại. Shasta trông có vẻ không hiểu tôi đang nhìn cái gì. Đôi mắt cô nàng đảo vài vòng quanh phòng.

“Tôi tới để mượn thứ đó.” Tôi chĩa tay thẳng về phía chiếc rìu.

“Thứ lỗi nếu như mắt tôi bị kèm nhèm, nhưng đó rõ ràng là rìu chiến của Rita mà.”

“Bingo.”

“Vậy... anh cũng là lính Bộ binh Trọng giáp à?”

“Cảnh vệ Nhật Bản.”

“Thật là khó cho tôi nha–– không phải tôi cố tình nói lời thô lỗ đâu –– nhưng cố bắt chước Rita chỉ khiến anh bị thương mà thôi.”

“Vậy có nghĩa là cô sẽ không cho tôi mượn?”

“Nếu anh thật sự nghĩ anh cần tới nó, tôi sẽ cho anh mượn. Dù sao đó cũng chỉ là một đống kim loại –– chúng tôi có cả mớ ở đây. Khi Rita lần đầu hỏi tôi, tôi đã cắt nó ra từ cánh của một cái máy bay thả bom không còn xài được nữa.”

“Thế cô còn chần chừ gì nữa?”

“Chà, nói thẳng nhé, anh sẽ bị giết đấy.”

“Dù cho có nó hay không thì có ngày tôi vẫn sẽ chết.”

“Tôi không thể thay đổi suy nghĩ của anh ư?”

“Chắc vậy.”

Shasta im lặng. Chiếc cờ lê trong tay cô cứ như miếng giẻ rách, và đôi mắt đờ ra. Mái tóc bù xù bết lấy mồ hôi và dầu mỡ xõa trước trán. “Tôi đã từng ở Bắc Phi,” cô ấy nói. “Người lính giỏi nhất của tiểu đội mạnh nhất ở đó nhờ tôi làm một cái, y hệt như anh vậy. Tôi cố gắng cảnh báo anh ta, nhưng việc này lại dính líu tới vấn đề chính trị, và chuyện trở nên phức tạp nên tôi đành cho anh ta.”

“Và anh ta đã chết?”

“Không, anh ta còn sống. Chỉ là sống thôi. Cuộc đời quân nhân của anh ta chấm dứt tại đó. Ước gì tôi có thể tìm ra cách để ngăn anh ta lại.”

“Cô không nên tự trách chính mình. Cô không phải là người khiến Mimic tấn công.”

“Là vậy đó, anh ta không phải bị thương vì đánh nhau với Mimic. Anh có biết quán tính là gì không?”

“Tôi có bằng tốt nghiệp cấp ba đấy.”

“Mỗi cái rìu chiến nặng 200 cân. Một cái nắm tay của Chiến giáp có lực 370 cân tất nhiên là có thể nắm được nó, tất nhiên rồi, nhưng kể cả mạnh hơn nữa cũng không trụ được quán tính khổng lồ đó. Anh ta bị chấn thương ở lưng khi vung chiếc rìu. Nếu anh vung 200 cân bằng sức mạnh khuếch đại của một chiếc Chiến giáp, anh sẽ bị vặn xoắn thành hai mảnh theo đúng nghĩa đen.”

Tôi hiểu rõ cô ấy đang nói gì –– quán tính mà cô ấy đang nói tới chính là cái tôi đang nhắm tới. Nó là thứ có thể bổ đôi xương trong của Mimic chỉ bằng một đòn. Chuyện nó có thể tự hại chính tôi không quan trọng lắm.

“Nhìn đi, tôi chắc rằng anh nghĩ anh rất giỏi, nhưng Rita không phải là một người lính thông thường.” Shasta đưa ra nỗ lực cuối cùng để khuyên ngăn tôi.

“Tôi biết.”

“Cô ấy không bình thường, thật đấy. Cô ấy không bao giờ dùng tới hệ thống tự động cân bằng. Và ý tôi không phải là cô ấy tắt nó đi trước khi bắt đầu trận chiến đâu. Chiến giáp của cô ấy thậm chí còn không được gắn thứ đó. Cô ấy là người duy nhất trong đội của chúng tôi không có nó. Trong một tiểu đội tinh anh, cô ấy còn hơn cả tinh anh.”

“Tôi đã thôi sử dụng hệ thống tự động cân bằng từ lâu rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện gỡ hẳn nó ra. Tôi sẽ phải làm vậy thôi. Cho nó nhẹ.”

“Ồ, vậy anh là Rita tiếp theo, phải thế không?”

“Không. Tôi còn lâu mới bằng được Rita Vrataski.”

“Anh biết cô ấy nói gì với tôi trong lần đầu tiên gặp gỡ không? Cô ấy nói thật may khi cô ấy sống trong một thế giới tràn ngập chiến tranh. Anh có thể nói điều tương tự không?” Shasta đánh giá tôi sau cặp đít chai dày cộp. Tôi biết cô ấy muốn nói cái gì. Tôi chỉ đáp trả ánh mắt đó bằng sự im lặng.

“Tại sao anh cứ khăng khăng muốn cái rìu chiến của Rita thế?” cô ấy hỏi.

“Không phải là tôi khăng khăng muốn nó. Tôi chỉ là muốn tìm thứ gì đó hiệu quả hơn khoan phản lực. Tôi có thể dùng giáo hoặc đoản kiếm, nếu cô có. Bất cứ thứ gì có thể dùng nhiều hơn hai mươi lần.”

“Đó chính là điều cô ấy nói khi cô ấy nhờ tôi cắt cho cô ấy cái rìu.” Shasta thả lỏng bàn tay cầm cờ lê.

“Bất cứ sự so sánh nào với Full Metal Bi –– ừm, Valkyrie đều là những lời khen đáng giá.”

“Anh biết không, anh rất...” Giọng của cô ấy bé dần.

“Tôi sao cơ?”

“Không bình thường.”

“Có lẽ vậy.”

“Phải nhớ rằng đó không phải là thứ vũ khí dễ dùng đâu.”

“Tôi có rất nhiều thời gian để luyện tập.”

Shasta mỉm cười. “Tôi đã gặp rất nhiều quân nhân nghĩ họ có thể nối gót Rita và đã thất bại, và tôi cũng từng gặp những người công nhận tài năng thiên bẩm của cô ấy và chưa từng có ý định đuổi theo cô ấy. Nhưng anh là người đầu tiên tôi gặp có thể nhận ra khoảng cách giữa bản thân và Rita mà vẫn cố đuổi theo đấy.”

Càng hiểu rõ về chiến tranh, tôi càng hiểu rõ tài năng của Rita đáng sợ thế nào. Vòng lặp thứ hai, khi Rita tham gia tập thể hình cùng với chúng tôi, tôi chỉ nhìn cô ta bằng ánh mắt thông thường vì tôi lúc đó chỉ là một thằng lính mới. Giờ sau bao nhiêu là vòng lặp, tôi đã được coi là một người lính Chiến giáp thực thụ, khoảng cách giữa cô ta và tôi có vẻ như còn lớn hơn. Nếu như tôi không, theo nghĩa đen, có một lượng thời gian vô hạn, tôi hẳn đã từ bỏ.

Với một cú nhảy hoành tráng, Shasta chộp lấy con chip silicon từ trong tay tôi. “Chờ đấy. Để tôi lấy vài số liệu về chiếc rìu trước khi anh đi.”

“Cảm ơn.”

Cô nàng chuẩn bị đi đo đạc lấy số liệu thì dừng lại. “Tôi hỏi anh cái này được không?”

“Hỏi đi.”

“Tại sao trên tay anh lại có ghi số bốn mươi bảy vậy?”

Tôi không biết phải trả lời cô ấy ra sao. Ngay lúc này tôi không tài nào kịp nghĩ ra lý do gì đáng tin để người lính viết số lên tay.

“Ồ, có phải đó –– ý tôi là, tôi hy vọng tôi chưa nói cái gì không nên nói?”

Tôi lắc đầu. “Cô biết cách người ta đánh dấu chéo lên lịch không? Kiểu kiểu như vậy đấy.”

“Nếu nó quan trọng tới mức anh phải viết lên tay, đó hẳn phải là thứ anh không muốn quên. Bốn mươi bảy ngày cho tới lúc về nhà, là vậy chăng? Hay số ngày đếm ngược tới sinh nhật bạn gái anh?”

“Nếu tôi phải gọi tên nó, tôi sẽ gọi đó là số ngày mà tôi đã chết.”

Shasta không nói gì thêm

Tôi có được chiếc rìu.



3[]

0600 Thức dậy.

0603 Mặc kệ Yonabaru.

0610 Trộm con chip silicon từ kho vũ khí.

0630 Ăn sáng.

0730 Tập các bước di chuyển căn bản.

0900 Luyện tập trong tưởng tượng khi tập bài thể hình mắc dịch.

1030 Ăn trưa.

1300 Luyện tập với trọng tâm chỉnh lại thao tác lỗi trong trận chiến trước. (Trong Chiến giáp.)

1500 Gặp Ferrell để thực chiến. (Trong Chiến giáp.)

1745 Ăn tối.

1830 Tham gia buổi họp của tiểu đội.

1900 Tới bữa tiệc của Yonabaru.

2200 Lên giường ngủ.

0112 Giúp Yonabaru lên giường.

Đây đại khái là thời gian biểu trong ngày

* * *


Ngoài luyện tập, mọi thứ đều đã trở thành quy luật. Tôi đã vượt qua mấy gã lính gác nhiều tới mức giờ tôi có thể nhắm mắt mà làm lại. Tôi bắt đầu lo tôi sẽ trở thành siêu đạo chích trước khi trở thành một quân nhân chuyên nghiệp mất. Tất nhiên cái khả năng trộm bất kỳ thứ gì trong thế giới cứ hết ngày lại reset chẳng có nghĩa lý gì lắm.

Công việc thường ngày không thay đổi nhiều lắm sau mỗi vòng lặp. Nếu tôi cố tình làm khác lịch trình, tôi có thể khiến chuyện gì đó khác biệt xảy ra, nhưng nếu tôi không làm gì thì mọi chuyện sẽ vẫn vậy. Cứ như mọi người cứ đọc cùng một kịch bản hết ngày này qua ngày khác và làm theo sát sàn sạt cái cốt truyện đó, không trật một li.

Giờ là 1136 và tôi đang ăn trưa tại Căn tin #2. Cô nàng phục vụ đưa tôi lượng súp hành y như mọi khi vào cùng một thời điểm và trong cùng một cái tô. Tôi xê dịch cách tay để né vài giọt bắn ra khi chúng vẫn bay với quỹ đạo giống hệt mọi khi. Từ chối mấy lời gọi từ những người bạn từ bên kia căn tin, tôi ngồi tại chỗ giống hệt mọi khi.

Rita ngồi trước mặt tôi, cách ba hàng ghế, ngồi ăn và quay lưng lại với tôi. Không phải tôi chọn thời điểm này để ăn vì trùng với giờ ăn trưa của cô ta; chỉ là ngẫu nhiên thôi. Tôi đã quen với việc nhìn cô ta ăn tại góc độ này mỗi ngày, chẳng vì lý do gì cụ thể cả.

Căn tin #2 không phải là nơi một thượng sĩ như Rita thường thấy tới. Không phải là do thức ăn không ngon đâu. Nó tương đối ngon là đằng khác. Nhưng nó trông chẳng có tí gì đủ gây được ấn tượng cho người thức dậy tại phòng nghỉ cao cấp mỗi buổi sáng và có một nửa căn cứ dưới quyền. Tôi nghe đồn Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ còn mang cả đầu bếp riêng theo, điều khiến sự tồn tại của cô ta càng trở nên thần bí. Cô ta có thể đã nuốt chửng một con chuột sống không biết chừng, có ai biết được đâu. Và rồi vị cứu tinh của chúng ta ăn một mình. Không ai cố nói chuyện với cô ta, và những chỗ ngồi bên cạnh cô ta luôn trống một cách đáng ngờ.

Trên chiến trường thì dũng mãnh như hổ, nhưng Rita Vrataski lại ăn như một đứa con nít. Cô nàng liếm chỗ súp nơi khóe môi và vẽ hình trên thức ăn bằng đầu đũa. Có vẻ như đũa là thứ khá xa lạ với cô ta. Vào lúc 1143 cô nàng làm rớt một hạt đậu trên đĩa. Nó lăn, tăng tốc, nảy vào cái khay, rồi lên bàn. Hạt đậu bay qua không trung và xoay theo chiều kim đồng hồ, hướng thẳng tới sàn bê tông. Lần nào cũng vậy, với phản xạ chớp nhoáng, Rita đều vươn tay trái ra, chụp lấy hạt đậu trên không trung và bỏ vào miệng. Tất cả chưa tới 0.1 giây. Nếu cô ta có mặt trong sê ri sách ‘the Old West’, tôi nghĩ cô ta sẽ rút súng còn nhanh hơn cả Billy the Kid. Nếu cô ta là một samurai, cô ta có thể đọc được mọi đường kiếm của Kojiro Sasaki. Kể cả đang ăn thì Full Metal Bitch vẫn là Full Metal Bitch.

Hôm nay, như mọi ngày, cô ta đang cố nuốt món umeboshi (món mơ muối). Cô ta hẳn đã nhầm nó với món quả khô bình thường. Sau khoảng hai ha ba lần nỗ lực cố gắp nó lên bằng đũa, cô ta lùa hết tất cả vào miệng.

Nuốt đi.

Rita cong người lại cứ như vừa ăn phải viên đạn 57mm vậy. Lưng cô ta cong lên. Mái tóc màu sắt rỉ trông như chuẩn bị dựng đứng hết cả lên. Nhưng cô ta không nhổ nó ra. Được đấy. Cô ta đã nuốt tất cả xuống. Sau đó cô nàng uống liền tù tì cả một cốc nước.

Cô ta hẳn cũng phải hai mươi hai tuổi đầu, nhưng bạn đừng hòng đoán được chuyện nó nếu chỉ nhìn cô ta. Bộ quân phục màu cát không thể tô điểm chút gì cho cô ta, nhưng nếu bạn cho cô nàng trang điểm với mấy cái váy viền ren mà tụi con gái dưới phố hay mặc, cô ta hẳn sẽ rất đáng yêu. Ít nhất thì tôi thích tưởng tượng như vậy.

Cái món này làm sao vậy? Vị như giấy ấy.

“Mày ăn có ngon không?” Giọng nói vang lên từ phía trên đầu tôi.

Giữ đôi đũa mà không hề di động một sợi cơ, tôi liếc nhìn qua khóe mắt. Một khuôn mặt từ thời tiền sử nhìn tôi từ dưới mái tóc cắt bằng, cao khoảng hai mét so với mặt nước biển. Dáng người của hắn trông giống khủng long hơn là người. Chắc phải có vị tằng tổ nào đó của hắn là khủng long velociraptor đấy. Khí thế của tôi tụt xuống khi tôi thấy hình xăm trên vai hắn: một con sói đội vương miện. Hắn ta từ đội #4, đại đội hằn học với chúng tôi sau trận đấu bóng bầu dục kia. Tôi quay lại đút đồ ăn vào miệng, đều đặn như máy.

Hắn ta nhướn mày lên, hai hàng lông mày dày cộm có thể khiến cả thế giới loài bướm phải ghen tị. “Tao hỏi là mày đang ăn ngon miệng à.”

“Sao tao có thể không ngon miệng giữa một đại đội như thế này?”

“Thế sao mày cứ nhai nuốt cứ như thể phải nhai chổi cọ bồn cầu thế hả?”

Chỉ có vài mống lính ngồi tại cái bàn ngoại cỡ trong căn tin. Cái mùi ngòn ngọt ngào ngạt từ phía nhà bếp. Ánh sáng nhân tạo từ bóng đèn neon trên trần nhà soi rọi núi tôm chiên nằm gọn trong những cái đĩa siêu bền của chúng tôi.

Nếu phải phân loại thức ăn ở trong UDF thành tốt hoặc xấu, nó tất nhiên là tốt. Dù sao thì người lính trong UDF cũng chỉ làm có ba việc là ăn, ngủ và chiến đấu. Nếu thức ăn không ngon thì bạn sẽ gặp phải vấn đề về đạo đức. Và theo Yonabaru, thức ăn tại Căn cứ Tuyến Flower này ngon hơn hết thảy.

Lần đầu tiên tôi ăn thử, tôi đã nghĩ nó rất ngon. Đó là khoảng năm tháng trước rồi, thậm chí còn hơn nữa. Khoảng một tháng trong vòng lặp, tôi bắt đầu phát ngán đồ ăn của tôi. Gia vị được nêm sai một cách cố ý tạo ra một hương vị đủ kinh khủng để nhắc nhở tôi thức ăn còn ở đó. Và giờ, thậm chí nó cũng đã ngừng hoạt động. Tôi chẳng quan tâm nếu bạn ăn thức ăn được nấu bởi đầu bếp bốn sao, sau tám mươi ngày ăn một món thì tất cả đều có vị giống nhau thôi. Có lẽ là do vậy. Theo quan điểm đó, tôi khó lòng mà nghĩ thức ăn thành cái gì khác ngoại trừ một nguồn cung cấp năng lượng.

“Nếu cái bản mặt tao khiến mày ăn mất ngon, vậy tao xin lỗi.” Chẳng có nghĩa lý gì khi bắt đầu một cuộc chiến.

“Chờ đã. Ý mày bảo đây là lỗi của tao?”

“Tao không có thời gian cho chuyện này.”

Tôi bắt đầu lùa chỗ thức ăn cuối cùng trong đĩa vào miệng. Hắn ta vỗ cái lòng bàn tay to bằng cái găng bóng chày xuống bàn. Món súp hành bắn lên cả áo tôi, để lại một vết bẩn chỗ bụng. Tôi thực sự không quan tâm lắm. Dù vết bẩn có cứng đầu thế nào thì ngày mai sẽ hết, và tôi thậm chí còn không phải giặt nó.

“Lời cằn nhằn của Đại đội 4 không đáng để đội 17 quan tâm, vậy sao?”

Tôi nhận ra tôi đã vô tình khơi mào một sự kiện hết sức khó chịu. Ngay từ đầu cái vòng lặp này đã bị nguyền rủa rồi, thật đấy. Tôi đã vô tình giết chết Ferrell vào cuối vòng lặp trước, và chuyện đó đã khiến mọi thứ trong vòng lặp này trật đường rầy hết cả. Tính tại thời điểm này, vẫn còn chưa đầy năm tiếng kể từ lúc anh ấy chết trong vũng máu. Tất nhiên sau đó tôi cũng bị cho lên bảng đếm số, nhưng chuyện đó chẳng có gì lạ. Ferrell đã chết khi cố bảo vệ một thằng fucking lính mới. Tất cả là vì chứng đau nửa đầu của tôi tự dưng tái phát.

Tôi định thả lỏng tâm trí bằng cách nhìn chằm chằm vào Rita như mọi khi, nhưng tâm trạng u ám của tôi chắc là đã lộ ra ngoài nhiều hơn tôi nghĩ. Tất nhiên chừng đó là đủ để châm ngòi thứ không xảy ra trong bất kỳ vòng lặp nào trước đó.

Tôi dọn cái khay và đứng dậy.

Cơ thể gã nọ là một bức tường thịt chắn ngang lối. Mọi người bắt đầu tụ tập lại, háo hức chờ đánh nhau. Giờ là 1148. Nếu tôi lãng phí thời gian tại đây thì thời gian biểu của tôi sẽ bị đảo lộn hết. Có nguồn thời gian vô tận không có nghĩa là tôi có thời gian để lãng phí. Mỗi một tiếng đồng hồ tôi đánh mất là một tiếng đồng hồ tôi yếu đi, và nó sẽ ảnh hưởng tới tôi trên chiến trường.

“Mày định chạy à, thằng cứt gà?” Giọng gã vang vọng trong căn tin.

Rita quay lại và nhìn tôi. Hiển nhiên cô nàng vừa nhận ra rằng gã tân binh lúc nãy nhìn chằm chằm vào cô trong buổi tập thể hình đang ăn trong cùng căn tin. Có gì đó mách bảo tôi rằng nếu tôi đáp lại ánh mắt của cô nàng, cô ta sẽ giúp tôi y như những gì cô ta đã làm trong buổi tập thể hình –– y như cái lần cô ta giúp tôi trong trận chiến đầu tiên. Rita không phải là kiểu người quay lưng lại khi thấy có người gặp rắc rối. Nhìn một phát là biết ngay cô nàng rất giàu lòng nhân ái. Tôi tự hỏi cô ta sẽ diễn màn kịch gì đây. Có thể cô nàng sẽ bắt đầu nói về món trà xanh để khiến gã này bình tĩnh lại. Tôi bật cười khi nghĩ tới chuyện đó.

“Có gì đáng cười sao?”

Oops. “Không liên quan gì tới mày.”

Tôi rời mắt khỏi Rita. Gã Keiji Kiriya đứng trong căn tin ngày hôm nay không còn là gã lính mới đơn thuần nữa. Ngoại hình của tôi có lẽ vẫn vậy, nhưng bên trong tôi đã được tôi luyện sau bảy mươi chín trận đấu. Tôi có thể tự giải quyết vấn đề riêng của mình. Tôi đã mắc nợ Rita trong buổi tập thể hình và còn nữa, tuy rằng gián tiếp nhưng nhờ bắt chước cách nói chuyện của cô nàng mà tôi mới có được một cái rìu chiến thừa của cô ta. Tôi không muốn khiến cô ta dính líu tới tôi lần thứ ba chỉ để cho xong buổi ăn trưa.

“Mày đùa bố mày à?” Hắn ta không định cho qua chuyện này.

“Tao xin lỗi, nhưng tao không có thời gian để dây dưa với mày.”

“Giữa hai chân mày có cái gì vậy? Một cặp bóng bàn à?”

“Tao không bao giờ mở bao ra để xem. Mày có à?”

“Đ** mẹ mày!”

“Đủ rồi!” Một giọng cáu gắt vang lên, cắt ngang cuộc cãi vã giữa chúng tôi. Đó không phải là Rita.

Vị cứu tinh là người không ai ngờ tới. Tôi quay lại để nhìn cô gái với làn da màu đồng đứng bên cạnh bàn. Bộ ngực buộc tạp dề in trắng trợn trong mắt tôi với góc tới 60 độ tuyệt hảo. Cô nàng đứng giữa chúng tôi và vẫn đang gắp một con tôm chiên còn đang bốc hơi bằng cặp đũa cả. Đó là Rachel Kisaragi.

“Tôi không muốn có đánh nhau ở đây. Đây là phòng ăn, không phải là sàn quyền anh.”

“Chỉ muốn dạy dỗ tên lính mới này vài phẩm chất tốt đẹp thôi mà.”

“Được rồi, trường học kết thúc ở đây.”

“Này, cô là người phàn nàn về chuyện trông hắn thảm thiết thế nào khi ăn thức ăn của cô mà.”

“Kể cả vậy.”

Rachel nhìn tôi. Cô nàng không chút oán giận khi tôi làm đổ cái xe khoai của cô ấy, nên vì việc này mà cô ấy giận thì chứng tỏ tôi đã gây ấn tượng mạnh rồi. Một phần chắc là vì cô ấy muốn gây xấu hổ cho bất cứ ai quen biết với Jin Yonabaru, được coi là người ồn ào nhất trong căn cứ. Tôi không trách cô ấy. Tôi từng vướng vào vụ đổ khoai tây, và giờ là vào vụ này. Hậu quả này là trách nhiệm của tôi.

Trong cái căn cứ như cái hoang mạc này, một người phụ nữ như Rachel chắc chắn sẽ hấp dẫn được một hai gã, nhưng tôi chưa từng nhận ra cô ấy nổi tiếng tới mức nào. Gã này vẫn chưa lao vào đánh tôi, một người khác đội. Hắn đang cố thể hiện.

“Ổn rồi. Đáng lẽ tôi không nên nói gì.” Rachel quay lại nhìn gã quái vật khổng lồ và dùng tay giấu sau lưng xua tôi đi. “Đây. Ăn con tôm này. Miễn phí đấy.”

“Để cho lũ chim cánh cụt đi.”

Rachel cau mày.

“Thằng dòi bọ này có định nói gì để bào chữa nữa không?” Thằng đó vung bàn tay to và núng nính thịt qua vai Rachel và tung một cú đấm.

Tôi phản ứng theo bản năng. Nhiều tháng trong Chiến giáp đã luyện cho tôi phải luôn đứng vững trên mặt đất. Chân phải xoay theo chiều kim đồng hồ, chân trái thì ngược chiều kim đồng hồ, khiến người tôi nghiêng sang một bên. Tôi gạt cánh tay hắn ra bằng tay trái và dơ khay đồ ăn trưa bên tay phải lên để tránh làm rơi đĩa, trọng tâm vẫn không dời khỏi giữa cơ thể. Rachel làm rớt con tôm chiên của cô nàng. Tôi túm lấy nó trước khi nó kịp có màn nhào lộn trên không và tiếp đuôi xuống đất.

Cú gạt tay đã khiến thằng đó mất cân bằng. Hắn lỡ đà bước tới hai bước, rồi bước thứ ba, sau đó ngã xuống chỗ đồ ăn trưa của một người lính ngồi trước gã. Thức ăn và đĩa bay ra và tan nát một cách ngoạn mục. Tôi đứng dậy, chỉnh cân cái khay bằng một tay.

“Cô làm rớt này.” Tôi đưa Rachel con tôm chiên. Những người chung quanh ào ào vỗ tay.

“Chó má!” Gã kia đã đứng dậy, nắm đấm bay thẳng về phía tôi. Hắn rất cứng đầu. Tôi mất vài tích tắc để tính xem nên né cú đấm của hắn, phản đòn hay quay lưng và quăn đít chạy.

Từ kinh nghiệm bản thân thì thấy, một người đàn ông được huấn luyện để lái Chiến giáp cũng được coi là có số má, nhưng nó chẳng là gì so với những gì Mimic có thể làm. Cú đấm của gã thất bại này đủ để gây đau, nhưng đừng hòng gây ra vết thương nào, trừ khi hắn cực kỳ may mắn. Tôi quan sát từng cân lực lượng hắn dồn vào cú đấm. Nắm đấm kia bay sát tới chóp mũi. Hắn ta quên mất động tác chân của mình, lộ ra một sơ hở. Tôi không nắm bắt lấy nó.

Tao vốn đã có thể giết mày đấy.

Hắn ta hồi phục sau cú đấm trượt, hơi thở phì phò từ mũi. Hắn bắt đầu nhảy nhảy như một gã quyền anh. “Thôi né tránh và đánh nhau như một thằng đàn ông đi, bitch!”

Vẫn chưa đủ à?

Khoảng cách giữa trình độ và kĩ năng giữa chúng tôi còn sâu hơn cả Vực Mariana, nhưng nó vẫn chưa đủ sâu để ngăn mấy con thiêu thân. Thằng khốn đáng thương.

Hắn ta tung một cú móc trái. Tôi bước lùi lại nửa bước.

Whoosh.

Lại một cú đấm khác. Tôi lùi lại. Tôi đã có hai cơ hội giết hắn ta rồi. Giờ đây là cơ hội thứ ba. Và giờ là thứ tư. Hắn để lộ nhiều sơ hở quá, đếm không hết. Tôi có thể cho hắn đo ván đến mười lần trong chỉ một phút. May cho hắn là công việc của tôi không phải là gửi một tay lính chiến giáp khỏe mạnh tới trạm xá, dù họ có mất bình tĩnh thế nào đi nữa. Công việc của tôi là gửi Mimic tới nơi dành riêng cho chúng trong Địa ngục.

Mỗi một cú đấm hắn ta tung ra và trượt, đám đông lại òa lên.

“Coi nào, mày vẫn chưa khiến hắn ta mảy may trầy xước!”

“Đừng có nhảy nhót và đón lấy một đòn đi!”

“Đấm hắn! Đấm hắn! Đấm hắn!”

“Để ý cửa, đừng để ai phá ngang vụ này! Tao đặt mười đô cho tay to con!” Ngay lập tức theo sau, “Hai mươi cho gã gầy!” Này, đó là tôi mà! Tôi tự nghĩ trong đầu khi né tiếp một cú đấm khác. Rồi ai đó bỗng hét lên, “Tôm chiên của tôi đâu? Tôi làm mất con tôm chiên rồi!”

Đám đông càng điên cuồng, hắn ta càng dồn sức vào cú đấm, và chúng lại càng dễ né.

Ferrell có một câu nói: “Chia nhỏ mỗi giây.” Lần đầu tiên tôi nghẹ được, tôi không tài nào hiểu được ý nghĩa của nó. Một giây là một giây. Làm sao mà kéo dãn hay chia nhỏ nó được.

Nhưng hóa ra bạn có thể chia một đơn vị thời gian thành nhiều phần nhỏ hơn. Nếu bạn bật một công tắc đằng trong óc lên, bạn có thể quan sát một giây trôi qua ra sao cứ như những khung hình trong một bộ phim ấy. Một khi bạn đoán được chuyện gì sẽ xảy ra trong mười khung hình tiếp theo, bạn có cả đống cách để xoay chuyển tình thế theo hướng có lợi cho bạn. Cái này thuộc cấp độ tiềm thức. Trong trận chiến, bạn không thể tin tưởng vào ai không biết làm thế nào để chia nhỏ thời gian.

Né đòn tấn công của hắn thì dễ. Nhưng tôi không muốn gây ra thêm sự kiện không cần thiết nào khác ngoài cái này. Tôi đã vướng phải cả đống rắc rối để bắt kịp thời gian biểu, nhưng nếu tôi cứ tiếp tục thế này thì đội #17 sẽ nhanh chóng tới được căn tin. Tôi cần phải kết thúc cái trò tiêu khiển này trước khi họ tới.

Tôi quyết định rằng ăn một cú đấm của hắn sẽ lãng phí ít thời gian nhất. Cái tôi không tính tới là Rachel lại tới và cố cản hắn ta. Cô nàng chỉnh sửa quỹ đạo của nắm đấm của hắn ta vừa đủ để thay đổi điểm rơi vốn là trên má xuống dưới cằm. Một cảm giác nóng cháy truyền từ răng và leo tới tận sống mũi. Những cái đĩa trên khay nhảy múa trên không trung. Và Rita, vẫn ở mép rìa phạm vi quan sát của tôi, đứng dậy rời khỏi căn tin. Tôi sẽ coi cơn đau này là một bài học cho lần tới. Tôi mất ý thức và chìm sâu vào giấc ngủ...

* * *


Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một cái giường do vài cái ghế xếp lại. Có cái gì đó ướt ướt đang ở trên trán tôi –– một cái khăn tay con gái. Hương cam nhàn nhạt lan tỏa trong không trung.

“Anh tỉnh chưa?”

Tôi đang ở trong bếp. Bên trên tôi là một cái máy thông gió công nghiệp đang kêu vo ve, hút hơi ẩm từ căn phòng đi. Gần đó, một chất lỏng màu xanh ô liu đang sắp sửa sôi trong một cái chảo khổng lồ như cái vạc mà những người thổ dân ăn thịt người hay dùng để luộc chín từ đầu tới chân mấy nhà thám hiểm đi lạc, ngoại trừ việc nó to hơn một chút. Thực đơn của tuần tới treo trên tường. Bên trên cái thực đơn viết tay là một cái đầu của một gã đàn ông cắt từ một tấm poster.

Sau khi nhìn hàm răng trắng bóng của hắn ta trong một khoảnh khắc tưởng như vĩnh hằng, tôi cuối cùng cũng nhớ ra. Đó là đầu của gã vận động viên thể hình từ tấm poster trong doanh trại của chúng tôi. Tôi tự hỏi làm thế nào mà hắn ta có thể lưu lạc từ doanh trại của mấy gã đực rựa tới bức tường mới, nơi hắn ta có thể dành cả ngày mỉm cười đầy ranh mãnh trước những cô gái làm việc trong nhà bếp.

Rachel đang gọt khoai tây, vứt từng đoạn vỏ xoắn ốc vào một cái thùng rác ngoại cỡ phải xấp xỉ kích thước của cái chảo. Đó cũng làm những củ khoai tây đã rơi như mưa trên đầu tôi trong vòng lặp thứ tư. Tôi đã ăn món khoai tây nghiền chết tiệt kia bảy mươi chín lần rồi. Trong bếp không còn người nào khác ngoài Rachel. Cô ấy hẳn phải tự mình phục vụ hết đồ ăn cho chúng tôi.

Đứng dậy, tôi cắn không vài cái để kiểm tra hàm của mình. Cú đấm kia có vẻ đã tới đúng chỗ. Mọi thứ không đến mức quá tệ như tôi dự tính. Rachel nhìn thấy tôi.

“Xin lỗi. Thực ra anh ta không phải người xấu đâu.”

“Tôi biết.”

Cô nàng mỉm cười. “Anh trưởng thành hơn vẻ bề ngoài đấy.”

“Dù sao vẫn chưa đủ trưởng thành để tránh né rắc rối,” tôi nhún vai và trả lời.

Người ta thường bốc đồng trước ngày ra trận.

Và những gã kia luôn tìm một cơ hội để thể hiện mình trong một trận đánh trước một người như Rachel. Mọi chuyện như được ông trời sắp đặt hòng chống lại tôi, mặc dù tôi khẳng định rằng cái bộ mặt của tôi chẳng liên quan gì ở đây hết.

“Anh là người theo chủ nghĩa hòa bình à? Anh có thể đánh trả mà.”

“Tôi muốn để dành nó cho chiến trường.”

“Ra vậy.”

“Là sao?”

“Ra vậy nên anh mới nương tay. Rõ ràng anh đánh nhau tốt hơn.” Ánh mắt của Rachel chĩa xuống tôi đầy ngụ ý. Là một cô gái, cô nàng khá là cao. Căn cứ Tuyến Flower xây xong được ba năm rồi. Nếu cô ấy tới đây ngay sau khi nhận được giấy phép nhà dinh dưỡng học, vậy tức là cô nàng phải hơn tôi ít nhất bốn tuổi. Nhưng trông chả giống vậy tí nào. Và không phải là cô ấy cố tình khiến mình trông trẻ ra đâu nhé. Màu da đồng rực rỡ cùng nụ cười ấm áp đều rất tự nhiên. Cô ấy làm tôi nhớ tới cô thủ thư tôi từng yêu hồi cấp ba. Nụ cười y như vậy đã đánh cắp trái tim tôi và đưa tôi tới làm việc ngoài giờ tại thư viện trong mùa hè oi bức năm đó.

“Cuộc đời của chúng ta sẽ được khắc trên đá. Giấy chỉ là nhất thời –– chúng quá dễ chỉnh sửa.” Những suy nghĩ như vậy thường xuyên xuất hiện trong tôi gần đây.

“Câu này nghe lạ đấy.”

“Có lẽ vậy.”

“Anh có bạn gái chưa?”

Tôi nhìn cô ấy. Đôi mắt xanh lá cây. “Chưa.”

“Tối nay tôi rảnh đấy.” Rồi cô ấy vội vàng thêm vào, “Đừng hiểu nhầm. Không phải ai tôi cũng nói vậy đâu.”

Chuyện đó thì tôi thừa biết. Cô ấy đá bay Yonabaru ngay tắp lự. Suốt một tuần tôi phải rửa tai nghe hết lời phàn nàn này tới lời phàn nàn khác về cô nàng nóng bỏng nhất với cặp đùi bị khóa lại với nhau bằng cái ổ khóa to nhất. “Thời nay mà còn chuyện đó thì thật là buồn cười,” anh ta bảo tôi. Và tôi có cảm giác đó không phải là sự đối xử bất công đâu, chỉ bởi vì đó là Yonabaru thôi.

“Mấy giờ rồi?” Tôi vẫn còn thời gian biểu phải tiếp tục.

“Gần ba giờ. Anh ngất xỉu tận ba tiếng rồi.”

1500. Tôi đáng ra phải đang luyện tập với Ferrell. Tôi phải sửa chữa những gì đã làm trong vòng lặp trước –– bước di chuyển đã giết chết Ferrell và trung úy. Họ đã chết để bảo vệ tôi bởi vì tôi cứ thích khoe mẽ kĩ thuật của mình trên chiến trường. Trong đầu tôi vẫn còn ám ảnh bởi tấm ảnh gia đình cháy xém tung bay trong gió được Ferrell đặt trang trí bên trong chiến Chiến giáp của anh ta. Tấm ảnh mà anh ấy đang cười dưới mặt trời Brazil rực rỡ, vây quanh bởi các anh chị em cứ day dứt trong tôi mãi không nguôi.

Tôi không sở hữu bất kì tài năng kiệt xuất gì khiến tôi nổi bật hơn những người khác. Tôi chỉ là một người lính. Có những chuyện tôi có thể làm, và những chuyện tôi không thể. Nếu tôi tập luyện nghiêm chỉnh thì tôi có thể biến một vài chuyện tôi không thể làm thành chuyện có thể. Tôi sẽ không để sự tự tin thái quá của bản thân giết chết những người đã bảo vệ tôi nữa.

Nếu trong hoàn cảnh khác thì tôi đã chấp nhận lời mời của cô ấy.

“Xin lỗi, nhưng tôi không phải là người mà cô cần.”

Tôi quay lưng lại và bắt đầu chạy tới sân huấn luyện, nơi Trung Sĩ Ferrell đang chờ, anh ấy vẫn còn ướt đẫm mồ hôi và được bơm đầy adrenaline.

“Asshole!”

Tôi chạy một mạch không dừng lại.


4[]

Vòng lặp #99

Chết sau bốn mươi lăm phút từ lúc bắt đầu trận chiến.


5[]

Vòng lặp #110:

Chúng đang băng qua chiến tuyến. Yonabaru là mắt xích yếu.

“Keiji... cái cuốn tiểu thuyết kì bí kia. Cái gã ăn bánh pudding chính là người...”

Với những lời đó, anh ta chết.

Chết sau năm mươi bảy phút từ lúc bắt đầu trận chiến.


6[]

Vòng lặp #123:

Cơn đau nửa đầu xuất hiện sau khoảng năm mươi vòng lặp bắt đầu trở nên dữ dội hơn. Tôi không biết nó bắt nguồn từ đâu. Thuốc giảm đau mà bác sĩ cho tôi không hiệu quả tí nào. Cái viễn cảnh cơn đau đầu này bám dính lấy tôi trong mỗi trận chiến từ lúc này trở đi cũng không làm suy giảm nhuệ khí của tôi là bao.

Chết sau sáu mươi mốt phút từ khi bắt đầu trận chiến.


7[]

Vòng lặp #154:

Mất ý thức sau tám mươi phút từ khi bắt đầu trận chiến. Tôi không chết, nhưng tôi vẫn bị quay về vòng lặp. Mặc kệ đi. Nếu chuyện là như vậy thì nó hẳn đã như vậy.


8[]

Vòng lặp #158:

Tôi cuối cùng cũng đã làm chủ cây rìu chiến làm từ volfram các bua. Tôi có thể bổ đôi bộ xương trong của một con Mimic chỉ nhờ một cú xoay cổ tay.

Để hạ gục kẻ địch mềm dẻo, loài người phát minh ra lưỡi đao có thể rung với tần số cao, khoan phản lực có thể bắn ra với vận tốc mười lăm nghìn mét trên giây, và những vũ khí cận chiến có thể phát nổ nhờ Hiệu ứng Monroe. Nhưng những vũ khí nóng hết đạn. Chúng kẹt đạn. Chúng bị hỏng. Nếu bạn cầm đao chém sai góc độ thì nó sẽ gãy. Và thế là Rita Vrataski đưa một thứ vũ khí tuy đơn giản mà hiệu quả vào, rìu.

Đó là một giải pháp rất khá. Mỗi một đơn vị động lượng sinh ra từ bộ truyền động của Chiến giáp đều được chuyển hóa trở thành lực lượng đầy tính phá hoại. Chiếc rìu có thể cong hoặc mẻ, nhưng tính hữu dụng đặc thù của thứ vũ khí đó vẫn không hề suy giảm. Trong trận chiến, những vũ khí mà bạn có thể sử dụng để đập kẻ thù vẫn đáng tin cậy hơn. Những vũ khí được mài bén nhọn như katana sẽ cắt quá sâu đến mức kẹt luôn trong cơ thể kẻ thù và bạn đừng hòng rút nó ra. Thậm chí từng có câu chuyện kể về những chiến binh tự mài cùn thanh gươm của mình bằng một hòn đá trước trận chiến hòng ngăn chuyện đó xảy ra. Chiếc rìu của Rita một lần nữa lại chứng minh rằng nó xứng đáng với thời gian bỏ ra.

Tiểu đội của tôi bò tới mũi phía bắc của Đảo Kotoiushi, Chiến giáp đặt trong Sleep mode. Còn năm phút nữa là tiểu đội trưởng sẽ ra tín hiệu bắt đầu trận chiến. Dù đã trải nghiệm không biết bao nhiêu lần nhưng đây vẫn là lúc thần kinh tôi căng lên nhất. Tôi có thể hiểu tại sao Yonabaru cứ lảm nhảm liên hồi. Ferrell cũng chỉ đành để chúng tôi chửi hắn xối xả.

“Anh bảo chú mày này, chú mày nên kiếm con hàng nào ngon ngon mà phang phịch đi. Nếu chú mày chờ tới lúc bị trói vào mấy cái Chiến giáp thì đã quá muôn rồi.”

“Ừ.”

“Wargarita điên loạn thì sao? Hai người nói chuyện trong buổi tập thể hình, đúng không? Tới đi, anh biết chú mày làm được mà.”

“Ừ.”

“Chú mày ngầu phết đấy.”

“Hử?”

“Chú mày vẫn chưa mất zin, thế mà chú mày vẫn bình tĩnh như một con điếm thối ấy. Lần đầu tiên ra trận anh mày cứ cồn cào trong ruột liên hồi.”

“Giống như bài kiểm tra xếp hạng thôi.”

“Chú mày đang nói tới cái gì vậy?”

“Anh không phải làm bài kiểm tra đấy ở trường cấp ba à?”

“Thằng em à, chú mày trông đợi anh nhớ chút gì về trường cấp ba đấy à?”

“Ừ.” Tôi cố gợi dòng suy nghĩ của Yonabaru để hắn bớt lải nhải, nhưng tâm trí tôi vẫn đang đặt tại bộ lái tự động. “Ừ.”

“Ừ cái gì? Anh thậm chí còn chưa nói gì.” Tiếng của Yonabaru xuyên qua sương mù đến tai tôi.

Tôi có cảm giác như đã đánh nhau tại chỗ này cả trăm năm rồi. Nửa năm trước tôi vẫn là một thằng nhóc tại trường cấp ba. Tôi chưa hề bỏ ra chút quan tâm nào tới trận chiến đang dần dần nhấn chìm địa cầu trong vũng máu của chính nó. Tôi sống tại một thế giới yên bình, có gia đình và bạn bè. Tôi không bao giờ tưởng tượng mình sẽ đổi lớp học và sân bóng đá để lấy chiến trường.

“Từ hôm qua chú mày cư xử kỳ quặc lắm đấy.”

“Hử?”

“Chú em, không gạt được tụi này đâu. Ý anh muốn hỏi là: cái đống kim loại mà chú mày mang theo là clgt? Và chú mày định dùng nó làm clgv? Đấu tranh đòi quyền cá nhân à? Định làm người mẫu à?”

“Để nghiền nát.”

“Nghiền nát cái gì?”

“Kẻ thù, hầu hết là vậy.”

“Nghe này, đó là nhiệm vụ của khoan phản lực. Đừng nói với anh chú mày giỏi dùng rìu hơn nhé? Có khi chúng ta nên tuyển mấy gã tiều phu vào trong tiểu đội đấy. Hi ho, hi ho!”

“So với cái rìu cỡ đó thì tiều phu nào cũng là những chú lùn mà thôi.”

“Hay đấy. Anh bố thí cho mày một like.”

Ferrell chen miệng vào. “Này, tao không biết nó học được khi nào, nhưng tao chắc trăm phần trăm là nó có thể xài thứ đó. Nhưng Kiriya, chỉ dùng nó khi chúng tiếp cận chú mày và chú mày không còn lựa chọn nào khác. Đừng lao đầu vào kẻ thù để tìm kiếm cơ hội sử dụng nó. Chiến tranh hiện đại không thể xa rời hỏa lực. Nhớ đấy.”

“Rõ.”

“Yonabaru.”

Tôi đoán trung sĩ cảm thấy anh ấy cần nhắc nhở mọi người cẩn thận.

“Dạ?”

“Cứ... làm như chú mày mọi khi là được.”

“What the hell, Trung sĩ? Keiji được một lời động viên còn em được câu đó à? Tâm hồn đa cảm trong em cũng cần những lời động viên đầy cảm hứng mà.”

“Tao cũng sẽ động viên khẩu súng của tao vì những gì nó sắp làm được.”

“Anh biết thế gọi là gì không? Phân biệt đối xử, là phân biệt đối xử đấy!”

“Từ đấy đến nay tao luôn nghĩ, Yonabaru à,” Ferrell khẽ nói qua đường dây liên lạc. “Tao sẽ tài trợ lương hưu của mình cho người phát minh ra cách khiến mày ngậm –– chết tiệt, bắt đầu rồi! Đừng để bị bắn nổ bi đấy, mấy chú!”

Tôi nhảy vào trận chiến như một chiếc lò xo, đồng hồ Đốp le vàng lên, âm thanh quen thuộc vang vọng trong mũ bảo hiểm. Như mọi lần.

Đây rồi. Một mục tiêu.

Tôi bắn. Tôi né. Một mũi giáo sượt ngang qua đầu tôi.

“Ai ở đó đấy? Anh lao tới quá nhanh! Anh muốn tự sát à?”

Tôi lờ đi mệnh lệnh của tiểu đội trưởng. Tôi không quan tâm bạn có bao nhiêu mạng, nếu bạn nghe theo lệnh của bất kì sĩ quan nào vừa mới ra trường thì bạn cũng sẽ chết đến chán mà thôi.

Những vỏ đạn bật lên không tạo nên những âm thanh ào ào sấm nổ. Tôi gạt cát khỏi mũ bảo hiểm. Tôi nhìn Ferrell và gật đầu. Chỉ mất một tích tắc là anh ấy nhận ra ngay loạt đạn áp chế tôi vừa bắn đã chặn được cuộc tấn công của kẻ thù. Đâu đó sâu trong lòng Ferrell, bản năng đã mách bảo anh ta tay lính mới tên Keiji Kiriya, người chưa từng đặt chân lên chiến trường là người mà anh ấy có thể sử dụng. Anh ấy có thể nhìn rõ sự táo bạo trong hành động của tôi vừa rồi. Khả năng thích ứng đó đã khiến anh ấy sống sót hai mươi năm trên chiến trường.

Nói thật, Ferrell là người duy nhất trong tiểu đội mà tôi có thể dùng. Những người lính khác tối đa mới chỉ nhìn thấy hai tới ba trận chiến. Mỗi người còn sống trong quá khứ đều chưa từng bị giết. Bạn không thể học hỏi được sai lầm của mình khi chúng giết bạn. Những gã non tay không hề biết cảm giác đi trên lưỡi dao giữa sống và chết là như thế nào. Họ không biết tại lằn ranh chia cắt hai phía, nơi chất đầy xác chết mới chính là nơi dễ sống sót nhất. Nỗi sợ hãi thấm đẫm mỗi centimet trên người tôi không chút nương tay, nó rất tàn nhẫn, và nó cũng là hy vọng tốt nhất của tôi để vượt qua trận chiến này.

Đó là cách duy nhất để chiến đấu với Mimic. Tôi chẳng biết gì về các cuộc chiến khác, và nói thẳng, tôi cũng chả quan tâm. Kẻ thù của tôi là kẻ thù của nhân loại. Những cái khác không quan trọng.

Nỗi sợ hãi chưa từng rời bỏ tôi. Cơ thể tôi run rẩy trước nó. Khi tôi cảm thấy sự hiện diện của kẻ thù bên ngoài phạm vi quan sát, tôi cảm thấy gai ốc nổi dọc xương sống. Ai đã bảo tôi nỗi sợ hãi có cách để thấm vào trong cơ thể ấy nhỉ? Là tiểu đội trưởng ư? Hay là Ferrell? Có lẽ đó là những gì tôi nghe được trong lúc huấn luyện.

Nhưng kể cả khi sợ hãi gặm nhấm lấy tôi thì nó cũng vỗ về tôi, xoa dịu cho tôi. Những người lính không biết sợ hãi sau khi adrenaline tràn lên não không thể sống sót. Trong chiến tranh, sợ hãi cũng như người phụ nữ mà mẹ bạn thường bảo bạn phải cẩn thận. Bạn biết cô ấy với bạn không thể đi đến đâu, nhưng bạn không tài nào từ bỏ cô ấy. Bạn phải tìm cách chấp nhận, bởi vì cô ấy sẽ không đi đâu cả.

Đại đội #17 thuộc Tiểu đoàn #3, Trung đoàn #12, Đơn vị Bộ binh Vũ trang #301 là những con tốt thí. Nếu tiền tuyến tập kích thành công, cuộc bao vây của Mimic sẽ cuốn trôi chúng tôi như dòng nước chảy xiết chảy vào con mương cạn. Nếu nó thất bại, chúng tôi sẽ trở thành những kẻ cô đơn giữa một biển quân thù. Dù chuyện gì xảy ra thì xác suất sống sót của chúng tôi đều không đáng kể. Đội trưởng biết điều đó, và Trung sĩ Ferrell cũng vậy. Cả đại đội được ghép lại từ những người lính sống sót sau cuộc tàn sát tại Okinawa. Còn sự lựa chọn nào tốt hơn cho nhiệm vụ một đi không trở lại đây? Trong một đợt hành động điều động hai mươi lăm ngàn Chiến giáp, nếu một đại đội 146 người bị quét sạch thì nó thậm chí còn không đáng để được viết trên mẩu giấy nhớ trên bàn của mấy gã thượng cấp trong Bộ Quốc Phòng đâu. Chúng tôi là những con cừu thí mạng lấy máu của bản thân bôi trơn cho bánh xe chiến tranh.

Tất nhiên, chỉ có ba loại trận chiến: hỗn loạn, cực kỳ hỗn loạn, và hỗn loạn ngoài sức tưởng tượng. Giật mình chẳng có ích gì cả. Bao nhiêu là thứ hỗn độn vây quanh. Chiến giáp y như vậy. Đồng đội y như thế. Kẻ thù y như vậy. Bản thân tôi y như vậy, cơ bắp tôi vẫn thế, vẫn chưa sẵn sàng đáp ứng những gì tôi đòi hỏi và gào lên kháng nghị.

Cơ thể tôi không bao giờ thay đổi, nhưng hệ điều hành điều khiển nó đã được cải tiến toàn bộ. Tôi bắt đầu từ một tay lính mới còn non xanh, một con búp bê giấy dễ dàng bị cơn gió chiến tranh quét sạch. Tôi trở thành một người kì cựu có thể bẻ cong cuộc chiến theo ý mình. Tôi mang trên vai trách nhiệm và trở thành một cỗ máy giết chóc trong những trận chiến không hồi kết –– một cỗ máy chạy bằng máu và dây thần kinh thay vì dầu và dây điện. Một cỗ máy không bao giờ rối trí. Một cỗ máy không khóc. Một cỗ máy mang nụ cười chua chát trên môi hết ngày này qua ngày khác. Nó đọc vị được trước diễn biến trận chiến. Đôi mắt nó rà soát tìm kẻ thù tiếp theo trước cả khi nó giết xong con đầu tiên, và trong đầu nó đã nghĩ về con thứ ba. Nó không may mắn, và cũng chẳng xui xẻo. Nó vẫn thế. Nên tôi tiếp tục chiến đấu. Nếu cái này tiếp tục trong vô tận, thì tôi sẽ tiếp tục trong vô tận.

Bắn. Chạy. Đặt một chân xuống, rồi chân kia. Tiếp tục di chuyển.

Một mũi giáo xé không bay tới chỗ tôi vừa đứng 1/10 giây trước. Nó cắm sâu xuống đất trước khi nổ tung, bắn hết cả cát lẫn bùn lên không trung. Tôi nghỉ một lát. Kẻ địch không thể nhìn xuyên qua cơn mưa bùn ­­–– tôi thì có thể. Đây rồi. Một, hai, ba. Tôi hạ gục lũ Mimic qua tấm rèm làm từ bụi.

Tôi vô tình đá phải một gã đồng đội –– kiểu đá mà bạn dùng để mở cửa ra khi cả hai tay đang bận. Tôi có một khẩu súng bên tay trái và một chiếc rìu chiến bên tay phải. May mà Chúa cho chúng ta hai tay và hai chân. Nếu chỉ có tam chi mà không phải tứ chi, tôi sẽ không thể giúp được gã quân nhân này, dù hắn là ai.

Vừa quay lại, tôi liền tung một cú chém bổ đôi một con Mimic khác. Tôi chạy tới chỗ người lính đã ngã xuống. Trên giáp hắn ta in hình một con sói đội vương miện –– là đại đội #4. Nếu họ ở đây tức là chúng tôi đã gặp phải lực lượng tập kích chủ lực. Tiền tuyến đã từ bỏ chúng tôi.

Hai vai tay lính đang run rẩy. Hắn ta đang sốc mạnh. Không biết là do tụi Mimic hay là do cú đá của tôi nữa. Hắn ta đã bị cả thế giới lãng quên. Nếu tôi để hắn ta tại đây, ba phút sau hắn ta sẽ chỉ còn là cái xác.

Tôi đặt tay lên giáp vai và thiết lập đường dây liên lạc.

“Mày nhớ bọn tao đã sỉ nhục tụi mày với tỉ số bao nhiêu trong trận đấu đó chứ?”

Hắn ta không trả lời. “Bọn mày đã thua Đại đội #17 đấy.”

“Gi...gì cơ?” Tiếng nói như được nạo vét từ cổ họng.

“Trận bóng bầu dục. Mày không nhớ à? Kết quả của trận đó còn được lưu lại trong hồ sơ nội bộ, nên tao đoán bọn tao phải thắng bọn mày bèo cũng hai chục điểm.”

Tôi nhận ra tôi đang làm gì.

“Mày biết không, buồn cười thật, tao lại đi đứng nói chuyện với mày như thế này. Này, mày có nghĩ cô ta sẽ bắt tao chịu trách nhiệm khi ăn cắp ý tưởng của cô ta không? Không biết cái này đã được cô ta đi xin cấp bằng sáng chế chưa nữa.”

“Cái gì? Mày nói cái quái gì thế?”

“Mày sẽ ổn thôi.” Hắn ta bình tĩnh lại rất nhanh –– hắn ta không phải là tay lính mới như tôi hồi đó. Tôi vỗ vào lưng hắn. “Mày nợ tao đấy, Đội #4. Tên mày là gì?”

“Kogoro Murata, và tao chả nợ mày cái qué gì sất.”

“Keiji Kiriya.”

“Thái độ thế đấy à. Tao không hẳn đã thích đâu.”

“Giống nhau thôi. Hy vọng chúng ta còn đủ vận may.”

Chúng tôi đấm tay nhau và tách ra.

Tôi vuốt mồ hôi trên trán. Tôi chạy. Tôi kéo cò. Đã một lúc lâu rồi kể từ khi cơ thể tôi kiệt sức, nhưng một góc nào đó trong tôi vẫn kiên trì gia tăng sự tỉnh táo, vốn là điều không thể trong điều kiện thường. Tâm trí tôi như một cái băng chuyền, chọn những quả táo ngon khỏi những quả táo sâu –– bất kỳ mẩu thông tin nào không cần thiết để sống sót đều được tự động loại bỏ.

Tôi thấy Rita Vrataski. Cơn chấn động sau một vụ nổ báo trước sự xuất hiện của cô nàng. Một quả bom định vị laser rơi từ trên máy bay xuống, cách xa chỗ kẻ thù. Nó bọc lót khoảng cách giữa chúng tôi trong khoảng hai mươi giây, nổ tung ngay chỗ Valkyrie chỉ định.

Rita lao tới chỗ quả bom rơi xuống, nơi tràn ngập những mảnh vỡ, có sống có chết. Từ hố bom, những sinh vật kia lúc nhúc lao tới chiếc rìu chiến của cô ta.

Dù đang giữa trận chiến, nhìn chiếc Chiến giáp đỏ của Rita vẫn khuấy động gì đó trong tôi. Riêng sự tồn tại của cô ta đã thổi một luồng sức sống mới cho chiến tuyến đã tan nát của chúng tôi. Kĩ năng của cô ta quả thật là có một không hai, đây là thành quả của Đặc Công Hoa Kỳ, tạo ra một người lính vượt trội hơn hết thảy. Nhưng còn hơn thế nữa. Cô ấy thực sự là vị cứu tinh của chúng tôi.

Trên chiến trường, một cái liếc mắt từ Chiến giáp của cô ta có thể khiến những người lính thêm mười phần trăm sức mạnh, dù anh ta có kiệt quệ tới mức nào. Tôi dám cá có đầy gã sau khi nhìn thấy cô ấy liền yêu luôn, cứ như một nam một nữ nhìn nhau trên con thuyền đang chìm giữa những con sống vậy. Trên chiến trường, cái chết có thể tới bất kỳ lúc nào, nên tại sao không bất chấp hết mà yêu nhau đi? Những gã khôn ngoan đặt cho cô ta cái tên Full Metal Bitch chính là vì vậy đấy.

Tôi không nghĩ họ nói đúng. Hoặc có thể bản thân tôi đã có tình cảm gì đó với Rita Vrataski cũng nên. Với tôi thế cũng không sao. Kẹt trong chuỗi vòng lặp khỉ gió này, tôi chẳng có chút xíu hy vọng nào cho tình yêu hết. Những vòng lặp lấy đi mọi phút giây tôi dành cho người khác.

Rita đã cứu tôi một lần, từ lâu rồi. Cô ấy giúp tôi bình tĩnh lại bằng câu chuyện nhảm nhí về món trà xanh. Cô ấy bảo tôi cô ấy sẽ ở bên cạnh tôi cho tới khi tôi chết. Còn mục tiêu nào tốt hơn cho mối tình đơn phương của tôi ngoài vị cứu tinh của chúng ta đây?

Hệ điều hành của cơ thể tôi tiếp tục tự động phản ứng, mặc dù tôi đang bị cảm xúc làm cho lơ đãng. Cơ thể tôi vặn vẹo. Tôi đạp một chân xuống đất. Tôi không cần phải suy nghĩ về trận chiến bày ra trước mắt. Suy nghĩ chỉ tổ vướng víu. Quyết định di chuyển theo hướng nào và như thế nào là những chuyện bạn làm trong luyện tập. Trong trận chiến mà bạn ngừng lại suy nghĩ thì Thần chết sẽ đứng đó chờ bạn, sẵn sàng vung chiếc lưỡi hái xuống.

Tôi tiếp tục chiến đấu.

Đã bảy mươi hai phút kể từ khi trận chiến bắt đầu. Tanaka, Maie, Ube và Nijou đều đã chết. Bốn người chết, bảy người bị thương, không ai mất tích. Nijou là người treo tấm poster cô người mẫu đồ bơi lên tường. Maie đến từ đâu đó sâu bên trong Trung Quốc. Hắn ta chả bao giờ mở miệng. Tôi không biết nhiều về hai người còn lại lắm. Tôi khắc sâu khuôn mặt của những người tôi không bảo vệ được vào trong óc. Trong vài giờ tới cơn đau của họ sẽ mất, nhưng tôi vẫn sẽ nhớ. Như một cái dằm đâm sâu vào tim tôi, tôi luyện tôi cho trận chiến tiếp theo.

Hình như tiểu đội của tôi đã co cụm lại với nhau. Tôi có thể nghe tiếng dao phay xé gió ở đằng xa. Họ vẫn chưa bị bắn bay đi. Đây là vòng lặp tốt nhất cho tới nay. Đội trưởng chẳng có lời gì để nói với tay lính mới dám tự tiện quyết định mọi việc. Từ đấy đến giờ Ferrell luôn bắn vài loạt đạn để yểm trợ tôi.

Và rồi tôi thấy nó –– con Mimic tôi đã chiến đấu trong trận đấu đầu tiên khiến tôi kẹt trong cái vòng lặp chết tiệt này. Tôi bắn ba mũi khoan phản lực vào nó vào ngày hôm ấy. Tôi không biết là vì sao, nhưng tôi biết đó là nó. Khoác lớp da như xác ếch bên ngoài không khác gì những con còn lại, nhưng tại đây, sau lần thứ 157 trải qua các vòng lặp, tôi vẫn nhận ra được con Mimic đã giết tôi trong lần đầu tiên.

Nó phải chết vì tôi thích thế.

Dường như tôi biết nếu tôi có thể giết nó, tôi sẽ vượt qua được một giới hạn nào đó. Có thể nó sẽ không phá vỡ được chuỗi vòng lặp hết trận chiến này tới trận chiến khác, nhưng sẽ có gì đó thay đổi, dù là rất nhỏ. Tôi chắc chắn

Ở yên đó. Tao đang tới chỗ mày đây.

Nhân nói chuyện vượt qua giới hạn, tôi vẫn chưa đọc tiếp cuốn tiểu thuyết kì bí đó. Không hiểu vì sao tôi lại làm vậy, nhưng tôi đã làm vậy. Tôi đã dành những giờ đồng hồ quý giá cuối cùng để đọc cuốn tiểu thuyết đó. Tôi đã dừng ngay trước đoạn tay thám tử chuẩn bị tiết lộ hung thủ. Tôi đã quá tập trung vào luyện tập mà không còn để ý tới nó nữa. Có lẽ cũng đã gần một năm rồi. Có lẽ đây là lúc tôi đi đọc nốt cuốn sách đó. Nếu tôi giết con Mimic này và đạt tới cấp độ tiếp theo, tôi sẽ đọc nốt chương cuối.

Rìu chiến sẵn sàng trong tay. Mặc kệ hết thảy, tôi lao tới.

Tín hiệu truyền về từ tai nghe. Ai đó đang nói chuyện với tôi. Là phụ nữ. Đó là vị cứu tinh của chúng ta, Full Metal Bitch, Valkyrie tái thế, Wargarita Điên loạn –– Rita Vrataski.

“Này, đây là vòng lặp thứ bao nhiêu rồi?”


Chapter 3: Full Metal Bitch[]

1[]

Mặt trời rực rỡ vẽ nên những cái bóng dài trên mặt đất. Bầu trời trong xanh đến mức bạn có thể bị xạ thủ bắn tỉa headshot từ khoảng cách vài kilomet. Trên sân, lá cờ của Đại đội #17 phấp phới bay trong cơn gió phương nam ẩm ướt vi vu từ Thái Bình Dương.

Không khí từ biển khơi như những con rắn trườn qua hai sống mũi, cọ cọ nơi đầu lưỡi rồi chui xuống cổ họng. Rita nhíu mày. Đó không phải là mùi hôi thối của Mimic. Giống cái mùi tanh tanh từ nước mắm hơn.

Nếu mặc kệ yếu tố thời chiến và nguy cơ bị thần chết đe dọa thì vùng Viễn Đông này cũng không đến nỗi tệ. Bờ biển tuy khó phòng ngự nhưng lại chứa đựng khung cảnh mặt trời lên rực rỡ. Cả không khí và nước đều rất trong lành. Nếu Rita, người chỉ có một phần mười sự tinh tế và trình độ văn hóa so với một người bình thường nghĩ rằng nơi đây thật tuyệt vời, vậy khách du lịch hẳn sẽ coi đây là thiên đường ấy chứ. Nếu có điểm trừ nào thì đó chắc là do cái không khí ẩm ướt khó chịu này.

Thời tiết vào đêm đó mà không kích thì tuyệt hảo. Một khi mặt trời mọc lên, những chiếc máy bay thả bom chất đầy những trái bom định vị GPS sẽ bay thành đàn trên trời hòng nổ banh hòn đảo thành địa hình mặt trăng trước buổi tập kích trên mặt đất vào sáng hôm sau. Những rặng san hô xinh đẹp, cùng với hệ động thực vật gọi nơi đó là nhà sẽ chịu chung số phận cùng kẻ thù, nếu mọi thứ diễn ra đúng theo kế hoạch.

“Một ngày đẹp trời nhỉ, cô có thấy thế không, Thượng sĩ Vrataski?” Một cái máy quay phim cũ kĩ gác bên cạnh chiếc cổ dày của gã, cỡ một thân cây tùng bách nếu đem đi so với những cây sồi bình thường của lính Chiến giáp. Rita mặc kệ hắn ta.

“Ánh sáng thật tuyệt. Những ngày như hôm nay có thể biến một chiếc máy bay chỉ toàn sắt thép trông như một tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci ấy chứ.”

Rita khịt mũi. “Anh đang làm nghiệp vụ chụp ảnh nghệ thuật à?”

“Cách nói như vậy có vẻ không hay lắm đối với phóng viên ảnh duy nhất trong chuyến viễn chinh tới Nhật Bản. Tôi vô cùng vinh dự với vai trò truyển tải sự thật của cuộc chiến này tới công chúng. Tất nhiên, 90% sự thật chỉ toàn là ánh sáng.”

“Khéo nói thật. Họ chọn anh hẳn vì tài PR của anh đấy. Anh đoán anh có mấy cái lưỡi?”

“Thượng đế chỉ trao một cái cho mỗi công dân Mỹ. Mặc dù vậy tôi nghe đồn rằng người Nga và người quốc đảo Crete có hai cái.”

“Chà tôi nghe kể rằng có một vị thần Nhật Bản chuyên cắt lưỡi những kẻ dối trá. Đừng có làm gì khiến cái của anh gặp rắc rối đấy.”

“Đừng nói xúi quẩy thế chứ.”

Tại góc sân huấn luyện, Rita và gã chụp ảnh đang đứng đó, hứng trọn cơn gió thổi vào từ đại dương. Ở giữa cái sân lớn, 146 gã đàn ông từ Đại đội #17 của binh đoàn bộ binh vũ trang Nhật Bản #301 đang cứng đờ thành hàng dọc trên mặt đất. Đó là một bài luyện tập được gọi là chống đẩy tổng hợp. Rita chưa từng thấy nó trước đây.

Những người còn lại trong đội của Rita đứng cách đó không xa, những cánh tay dày và lông lá khoanh trước ngực. Họ đang làm những chuyện sở trường của người lính, chính là chế giễu những kẻ kém may mắn hơn họ. Chắc đây là cách lũ đó tập cúi chào đấy! Này, samurai! Thử cầm kiếm lên sau một tiếng tập cái đó coi!

Đồng đội của Rita không ai tới gần cô trong vòng ba mươi tiếng trước một đợt tấn công. Đó là một luật bất thành văn. Người duy nhất dám tới gần cô ấy là cô Kỹ sư người Mỹ cận thị nặng và tay thợ chụp ảnh, Ralph Murdoch.

“Họ không cử động gì sao?” Rita đầy nghi vấn.

“Không, họ chỉ giữ nguyên tư thế đó.”

“Tôi không biết cái đó có phải là bài huấn luyện samurai không nữa. Nếu anh hỏi tôi, nó trông giống yoga hơn.”

“Thật là kỳ khi truyền thống Nhật Bản và Ấn Độ thần bí lại có điểm tương đồng!”

“Chín mươi tám!”

“Chín mươi tám!”

“Chín mươi chín!”

“Chín mươi chín!”

Nhìn chằm chằm xuống đất như những người nông dân nhìn hạt gạo nảy mầm, những người lính đồng thanh đếm cùng với trung sĩ huấn luyện. Tiếng hét của 146 người đàn ông vang vọng trong hộp sọ của Rita. Cơn đau nửa đầu quen thuộc truyền những tín hiệu đau đớn đi khắp đầu cô. Cơn đau lần này khá nghiêm trọng.

“Lại đau đầu à?”

“Không liên quan tới anh.”

“Tôi không thể hiểu tại sao một tiểu đội với đầy bác sĩ chuyên gia mà lại không thể chữa được một bệnh đau đầu đơn giản.”

“Tôi cũng vậy. Sao anh không thử tìm hiểu xem?” cô ấy đốp chát lại.

“Họ giấu mấy gã đó kĩ quá. Tôi thậm chí còn không thể phỏng vấn được họ.”

Murdoch nâng camera lên. Không biết hắn ta định làm gì với những bức ảnh những gã bồ tượng khoanh tay trước ngực, đứng yên quan sát nữa. Có lẽ là bán cho tờ báo lá cải nào đó hết tin để đăng.

“Tôi không chắc vậy là đúng mực đâu.” Rita không biết ai trên sân huấn luyện cả, nhưng cô không cần phải biết họ để thấy quý họ nhiều hơn Murdoch.

“Những bức ảnh không có ngon hay dở. Nếu cô nhấp chuột vào một đường link và một bức ảnh pop-up có hình một cái xác hiện ra, cô có thể đệ đơn kiện. Nếu bức ảnh tương tự xuất hiện trên trang chủ của tờ New York Times, nó có thể giành giải báo chí Pulitzer.”

“Chuyện này thì khác.”

“Vậy sao?”

“Anh là người đột nhập vào trung tâm xử lý dữ liệu. Nếu không phải vì sai lầm của anh, những người này sẽ không bị trừng phạt, và anh sẽ không ở đây và chụp ảnh họ. Tôi sẽ xếp nó vào mục ‘dở ẹc’.”

“Đừng vội vàng thế chứ. Tôi bị vu cáo mà.” Tiếng cửa chớp của camera đóng mở liên tục, chen ngang cuộc nói chuyện của hai người.

“Hệ thống an ninh ở đây khá lỏng lẻo nếu so với trung tâm chỉ huy. Tôi không rõ anh định đào bới tìm kiếm cái gì tại nơi khỉ ho cò gáy này, nhưng đừng khiến người khác gặp họa vì nó.”

“Vậy ra cô nhắm vào tôi à.”

“Tôi chỉ ghét khi thấy những cảnh ‘censor’ khi anh xúc cái xẻng xuống thôi.”

“Chính phủ có thể nói cho chúng ta bất kỳ sự thật nào họ muốn. Nhưng có những cái là sự thật, và có những cái lại là sự thật,” Murdoch nói. “Tất cả tùy thuộc vào việc người ta quyết định cái nào là thật. Dù cho đó là thứ chính phủ không muốn công bố.”

“Quá độc đoán.”

“Thử kể tên một nhà báo giỏi nào mà không độc đoán đi. Cô phải như vậy thì mới có thể tìm thấy được câu chuyện. Cô có biết Kẻ Mơ Mộng nào không?”

“Tôi không theo tôn giáo.”

“Cô có biết lũ Mimic hành động gần như đúng vào thời điểm các cô khởi động chiến dịch đồ sộ đó tại Florida không?”

The Dreamers là một nhóm những người theo chủ nghĩa hòa bình ­­–– tất nhiên là dân thường. Sự xuất hiện của Mimic đã tạo ra những tác động to lớn tới hệ sinh thái biển. Những tổ chức kêu gọi bảo vệ lũ cá heo, cá voi cùng những loài thú có vú ở biển khác đã chết hết sạch. The Dreamers tiếp tục phát triển từ nơi họ đã bỏ lại.

Dreamers tin rằng Mimic có trí khôn, và họ khăng khăng cho rằng chính vì thất bại của loài người trong việc giao tiếp với chúng mới dẫn tới cuộc chiến này. Họ lý giải rằng nếu Mimic có thể nhanh chóng tiến hóa thành những vũ khí sống hùng mạnh đến vậy thì chúng cũng có thể phát triển phương tiện giao tiếp. The Dreamers đã bắt đầu chiêu mộ thành viên, những người đã phát chán vì chiến tranh, những người tin rằng loài người sẽ không bao giờ giành được thắng lợi trước chúng, và trong hai năm qua quy mô hoạt động của nó đã bành trướng đáng kể.

“Tôi đã phỏng vấn một vài người trước khi tới Nhật Bản,” Murdoch tiếp tục.

“Nghe có vẻ mệt mỏi nhỉ.”

“Họ đều có chung một giấc mơ vào mỗi ngày. Trong giấc mơ đó, loài người thất bại trước Mimic. Họ nghĩ đó là một thông điệp mà chúng cố gửi tới chúng ta. Còn thông điệp gì thì không cần tôi phải nói ra chứ.” Murdoch liếm liếm môi. Cái lưỡi quá bé so với thân hình quá khổ, gây ấn tượng rất khác biệt về một loài động vật thân mềm. “Tôi đã có một cuộc đào bới nhỏ, và hóa ra đã có những sự quan tâm đặc biệt tới những giấc mơ đó vào những ngày trước khi Đặc chủng Hoa Kỳ tiến hành tổng tiến công. Và trong những năm qua, số người có giấc mơ đó tiếp tục gia tăng. Chuyện này vẫn chưa được công bố, nhưng có vài người trong đó thậm chí còn ở trong quân đội.”

“Anh tin vào những gì lũ dở hơi đó nói sao? Cứ nghe họ một hồi và họ sẽ khiến anh nghĩ lũ khỉ biển đều là Einstein mất.”

“Những chuyên gia hàn lâm đã thảo luận về khả năng Mimic là loài có trí khôn rồi. Và nếu là thật, chuyện chúng cố gắng giao tiếp cũng không quá khó tin đâu.”

“Anh không nên giả định mọi thứ anh không biết đều là một tin nhắn,” Rita nói. Cô ấy khịt mũi. “Cứ như vậy, và tiếp theo anh sẽ nói tôi rằng anh đã tìm ra dấu hiệu của trí khôn trong chính phủ của chúng ta, và chúng ta đều biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.”

“Rất hài hước đấy. Nhưng có một kiến thức khoa học mà cô không thể phớt lờ được. Mỗi bước đi trên nấc thang tiến hóa –– từ sinh vật đơn bào, tới những loài máu lạnh, và cuối cùng là động vật máu nóng –– đều có sự tăng trưởng gấp mười lần trong việc tiêu thụ năng lượng.” Ralph lại liếm môi. “Nếu cô nhìn vào lượng năng lượng một người trong xã hội hiện đại tiêu thụ, nó lớn gấp mười lượng một loài động vật máu nóng với cùng kích cỡ tiêu thụ. Vậy mà Mimic, những con được coi là động vật máu lạnh lại tiêu thụ cùng một mức năng lượng như con người.”

“Vậy có nghĩa là chúng ở vị trí cao hơn trên cái cầu thang kia? Lý thuyết hay đấy. Anh nên đem nó đi xuất bản.”

“Có vẻ như tôi phải nhắc lại cho cô về những giấc mơ.”

“Tất nhiên tôi có mơ. Giấc mơ bình thường.”

Với Rita, đi tìm hiểu ý nghĩa trong những giấc mơ thật sự là một sự lãng phí thời gian. Một cơn ác mộng là một cơn ác mộng. Và những vòng lặp thời gian mà cô ấy sẩy chân bước vào trong dòng chảy chiến tranh, chà, chúng chắc chắn là thứ hoàn toàn khác. “Ngày mai chúng ta có một đợt tiến công. Anh đã phỏng vấn được ai nhận được tin nhắn chưa?”

“Tất nhiên là rồi. Tôi đã gọi về Los Angeles vào sáng hôm nay để kiểm chứng. Cả ba người đó đều đã có giấc mơ đó.”

“Giờ tôi biết đó hoàn toàn là bố láo. Chuyện đó hoàn toàn là không thể.”

“Sao cô biết được?”

“Ngày hôm nay chỉ mới là lần đầu tiên.”

“Lại nó sao? Sao một ngày lại có lần đầu hay lần thứ hai được?”

“Hy vọng anh sẽ không bao giờ tìm ra.”

Murdoch nhún vai. Rita quay lại liếc những chàng trai đen đủi trên sân.

Lính chiến giáp không cần dùng nhiều cơ bắp. Tính nhẫn nại là hàng đầu, không phải là năng lực bùng cháy thể lực. Để rèn luyện tính nhẫn nại, bền bỉ, đội của Rita luyện tập một thế đứng của kung-fu gọi là đứng tấn. Đứng tấn yêu cầu bạn chân bước rộng bằng vai, cứ như bạn đang cưỡi ngựa vậy và giữ nguyên tư thế đó trong một khoảng thời gian xác định. Ngoài việc tăng cường độ bền cơ chân, đó là một biện pháp cực kỳ hiệu quả để tăng cường thăng bằng.

Rita không rõ lợi ích, nếu có, mà chống đẩy tổng hợp có thể mang lại là gì. Nó trông giống trừng phạt hơn, đơn giản và trần trụi. Những người lính Nhật Bản, xếp cạnh nhau như cá mòi trong đồ hộp, đứng yên bất động trong tư thế đó. Với họ, đây hẳn được xếp vào loại trải nghiệm tồi tệ nhất trong đời. Kể cả vậy, Rita hâm mộ họ khi có những ký ức đơn giản đó. Rita đã từ rất lâu rồi không còn có những kinh nghiệm sống hết mình cùng mọi người đó nữa.

Cơn gió vu vơ tung bay mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy. Chỗ tóc mái đó vẫn quá dài dù cô đã cắt nó không biết bao nhiêu lần, khiến trán cô đau nhói.

Thế giới này vẫn vậy tại điểm khởi đầu vòng lặp. Những gì xảy ra ở đây chỉ có Rita mới nhớ. Mồ hôi của những người lính Nhật Bản, tiếng hò hét và chế giễu của Lực lượng Đặc chủng Hoa Kỳ –– tất cả sẽ bị cuốn đi không để lại chút dấu vết.

Mặc dù tốt nhất là không nên nghĩ về nó, nhưng nhìn những người lính này luyện tập vào ngày trước khi bắt đầu tấn công, mồ hôi ướt đẫm áo sơ mi, dính cứng vào da họ trong bầu không khí ẩm thấp, cô vẫn cảm thấy có lỗi với họ. Theo cách nào đó, đây là lỗi của cô khi mang Murdoch theo cùng cô.

Rita quyết định tìm cách để rút ngắn buổi tập thể hình này và đặt dấu chấm hết cho cái bài tập trông như vô nghĩa này. Vậy nếu nó truyền dẫn cả tinh thần chiến đấu của samurai thì sao? Họ vẫn sẽ ướt đẫm mồ hôi vào lần đầu tập kích Mimic. Cô muốn dừng nó lại, dù đó chỉ là một hành động ủy mị mà chẳng ai ngoài cô trân trọng nó.

Bao quát sân huấn luyện, Rita tình cờ nhìn thấy một đôi mắt bướng bỉnh đầy thách thức nhìn chằm chằm vào cô. Cô đã quen được nhìn với vẻ kinh sợ, ngưỡng mộ, thậm chí là sợ hãi, nhưng cô chưa từng thấy ánh mắt này trước đây: ánh mắt chứa đầy lòng thù hận không thể kiềm chế được từ một người hoàn toàn xa lạ. Nếu người ta có thể bắn laser từ mắt, Rita hẳn đã bị nướng chín còn hơn cả con gà tây trong lễ phục sinh chỉ trong ba giây.

Cô chỉ duy nhất từng gặp một lần người đàn ông có đôi mắt đầy mãnh liệt như vậy. Đôi mắt xanh thẫm của Arthur Hendricks không hề biết tới sợ hãi. Rita đã giết anh ta, và giờ đôi mắt đó nằm sâu trong đất lạnh.

Căn cứ vào cơ bắp, người lính đang nhìn cô hẳn chỉ là một tay lính mới vừa bước ra khỏi trại huấn luyện không lâu. Chả có gì giống Hendricks cả. Anh ta là người Mỹ, là một thượng úy, và là chỉ huy của đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ.

Màu đôi mắt của người lính này thì khác. Cả mái tóc của gã nữa. Khuôn mặt và cơ thể lại càng khác biệt. Vậy mà vẫn có gì đó từ người lính Châu Á này khiến Rita Vrataski ưa thích.


2[]

Rita từng thường xuyên tự hỏi thế giới này sẽ ra sao nếu có cỗ máy có thể đo đạc tuyệt đối tiềm năng của một người.

Nếu DNA quyết định chiều cao hay hình thù khuôn mặt của một người, tại sao nó không quy định nốt những đặc điểm ít hiển nhiên hơn? Cha và mẹ của chúng ta, cả ông và bà nữa –– sau cùng mỗi cá thể đều là sản phẩm của máu chảy trong huyết mạch của những người chui ra trước. Một cỗ máy công bằng có khả năng đọc được thông tin đó và đánh giá giá trị của nó, đơn giản như đo tầm cao, cân nặng, đo huyết áp, thử sức kéo.

Chẳng may ai đó có tiềm năng khám phá ra một công thức để mở khóa những điều huyền bí trong vũ trụ mà lại trở thành tác giả truyện viễn tưởng thì sao? Chẳng may người có tiềm năng tạo ra những hương vị tinh tế vô song trong ngành ẩm thực mà lại đặt tâm huyết vào kĩ sư dân sự thì thế nào? Có cái mà chúng ta muốn làm, và có cái mà chúng ta có thể làm. Khi hai thứ đó không trùng nhau, liệu ta nên theo đuổi con đường nào để tìm lấy hạnh phúc đây?


* * *


Khi Rita còn bé, cô được tặng quà nếu làm hai việc: chơi trò ném móng ngựa và giả vờ khóc. Cái suy nghĩ rằng DNA của cô chứa đựng tiềm năng trở thành một chiến binh vĩ đại còn chưa xuất hiện trong tâm trí cô.

Trước khi cô ấy mất cha mẹ vào tuổi mười lăm, cô chỉ là một đứa trẻ bình thường ghét cay ghét đắng mái tóc như củ cà rốt của mình. Cô không giỏi thể thao cho lắm, và điểm số tại trường cấp hai cũng chỉ tàng tàng. Cô không hề bị cô lập vì ghét ớt ngọt hay cần tây. Chỉ có kĩ năng giả vờ khóc của cô là thật sự khác thường. Cô không thể lừa mẹ mình, người có đôi mắt chim ưng nhìn thấu mọi mưu mẹo của cô, nhưng bất kì ai khác cũng đều bị cô gạt chỉ sau hai ba giây rỉ nước. Một điều khiến Rita khó chịu khác là mái tóc đỏ cô thừa hưởng từ người bà. Những điểm khác về cô đều giống hệt bất kỳ người nào trong ba triệu người Mỹ.

Gia đình của cô sống tại Pittsfield, một thị trấn nhỏ ở phía đông của Sông Mississippi. Không phải là Pittsfield ở Florida, cũng không phải là Pittsfield ở Massachusetts, mà là Pittsfield ở Illinois. Cha của cô là con út trong một gia đình võ đạo –– chủ yếu là Nhu thuật. Nhưng Rita không muốn tới trường quân sự hay chơi thể thao. Cô chỉ muốn ở nhà và nuôi lợn.

Ngoại trừ việc thanh niên trai tráng đăng ký vào UDF, cuộc sống của những người tại Pittsfield khá yên bình. Đây là một nơi khiến bạn dễ dàng quên đi chuyện loài người đang chiến đấu chống lại những kẻ thù kỳ lạ và kinh khủng.

Rita không ngại sống tại một thị trấn nhỏ và chẳng nhìn thấy ai ngoài bốn ngàn người mãi. Lắng nghe tiếng lợn kêu éc éc ngày qua ngày có lẽ sẽ hơi buồn chán, nhưng không khí rất trong lành, và bầu trời thì rộng mở. Cô có một nơi bí mật mà cô chuyên dùng để ngủ ngày và tìm cỏ bốn lá.

Một nhà buôn già đã nghỉ hưu có một tiệm tạp hóa bên trong thị trấn. Ông ấy bán mọi thứ từ đồ ăn thức uống tới đồ kim khí như những chiếc thánh giá bạc nho nhỏ dùng để đuổi lũ Mimic đi. Ông ấy có bán loại hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên mà bạn không thể tìm tại nơi nào khác.

Những đợt tấn công của Mimic đã biến phần lớn đất nông nghiệp tại những nước đang phát triển thành hoang mạc, khiến cho những đồ ăn thức uống xa xỉ như cà phê tự nhiên, trà và thuốc lá trở nên cực kỳ khó tìm. Chúng đã được thay bằng những hương liệu nhân tạo có vị na ná mà thông thường thì thất bại thảm hại.

Thị trấn của Rita là một trong nhiều thị trấn liệt vào mục cung cấp sản phẩm và gia súc cần thiết cho một quốc gia nghèo đói và quân đội của nó.

Những nạn nhân đầu tiên của Mimic cũng là những người yếu đuối nhất: những dân tộc nghèo nhất tại Châu Phi và Nam Mỹ. Những quần đảo tại Nam Á. Những nước thiếu năng lực bảo vệ bản thân phải trơ mắt nhìn sa mạc xâm thực vào đất lành của họ. Người ta bỏ hết những cây công nghiệp –– cà phê, trà, thuốc lá và tiêu, những thứ mà các nước giàu thèm thuồng –– và bắt đầu trồng cây bông, đậu và lúa mì, bất cứ thứ gì chống lại được nạn đói. Những quốc gia phát triển về cơ bản đã có thể ngăn chặn được Mimic tại bờ biển, nhưng phần lớn sản phẩm họ lấy ra để trợ cấp đã biết mất khỏi những khu chợ và trên kệ những cửa hàng vào ban đêm.

Cha của Rita, người đã lớn lên trong một thế giới mà cả những người phương tây cũng được thưởng thức hương vị sushi tươi mỗi ngày, là kiểu người, không có phóng đại đâu nhé, nghiện cà phê nặng. Ông ấy không hút thuốc hay uống rượu –– chỉ có cà phê là thói xấu khó bỏ. Thường thường ông ấy sẽ ôm Rita và lén lút tới chỗ cửa hiệu của ông cụ khi mẹ Rita không để ý.

Ông cụ có làn da màu đồng và bộ râu trắng rậm rạp.

Khi ông không kể chuyện, ông ngậm chặt lấy tẩu thuốc và phả ra những vòng tròn khói. Cả ngày ông ấy chỉ ngồi với đống hàng hóa vây quanh, những hàng nhập khẩu từ những quốc gia mà người ta chả mấy ai biết. Ở đó có những con vật chạm trổ bạc. Những con búp bê lố bịch. Những cột Totem khắc những khuôn mặt của chim chóc hay những con thú lạ. Không khí bên trong tiệm là một hỗn hợp của khói thuốc của ông già, mùi hạt tiêu và những hạt cà phê hoàn toàn tự nhiên vẫn còn nghe mùi đất nơi chúng được trồng.

“Những hạt này lấy từ Chile. Còn chỗ này là từ Malawi, ở Châu Phi. Và chỗ này thì vận chuyển dọc con đường tơ lụa từ Vietnam tới Châu Âu,” ông ta kể cho Rita. Với cô, những hạt này trông chả khác gì nhau, nhưng cô vẫn chỉ, và ông cụ vẫn cứ kể rành mạch nguồn gốc.

“Hôm nay có loại từ Ranzania không?” Cha của cô rất hiểu biết về cà phê.

“Sao, anh uống hết mẻ trước rồi à?”

“Ông bắt đầu nói chuyện y hệt vợ tôi rồi đấy. Tôi biết nói gì đây? Chúng là món khoái khẩu của tôi.”

“Cái này thì sao –– chỗ này không tầm thường đâu. Cà phê Thượng hạng Kona trồng từ Hòn đảo Lớn của Hawaii. Ở New York hay Washington cũng chẳng mấy khi tìm thấy chúng đâu. Cứ ngửi mùi thì biết!”

Những nếp nhăn trên đầu ông cụ gấp sâu lại khi ông cười. Cha của Rita khoanh tay, hoàn toàn bị ấn tượng. Ông ấy đang tận hưởng khoảnh khắc tiến thoái lưỡng nan khó khăn này. Quầy thu tiền cao hơn một tẹo so với đầu Rita, nên cô ấy nhón chân lên để nhìn rõ hơn.

“Có Hawaii này. Cháu đã thấy cái này trên TV.”

“Cháu cũng biết nhiều nhỉ, cô bé.”

“Ông không nên đùa như thế. Bọn trẻ con xem tin tức nhiều hơn người trưởng thành nhiều. Mấy gã trưởng thành không xem bóng chày thì cũng chỉ xem bóng bầu dục.”

“Cái này thì cậu nói đúng.” Ông cụ gật đầu. “Ừ, đây là chỗ cuối cùng rồi. Những hạt cà phê Kona cuối cùng trên bề mặt quả đất. Một khi chỗ này hết thì nó cũng hết.”

“Sao ông kiếm được thứ như vậy?”

“Chà, đó là bí mật.”

Cái túi vải chất đầy những hạt màu kem. Chúng tròn hơn một tí so với hạt cà phê thông thường, nhưng các mặt khác thì trông rất phổ thông.

Rita cầm một hạt lên và quan sát. Mẫu vật chưa được nướng chín này sờ trông hay hay. Cô tưởng tượng về những hạt được phơi khô dưới ánh mặt trời trên khoảng trời trong xanh, trải rộng tới tận xích đạo. Cha của cô đã từng kể cho cô nghe về bầu trời bên ngoài những hòn đảo. Rita không bận tâm chuyện khung trời tại Pittsfield có màu xanh thật nhạt và trong như nước, nhưng có một lần cô từng muốn được nhìn thấy những khoảng trời chất đầu những tia nắng vàng ấm áp sưởi ấm từng hạt cà phê.

“Cháu có thích cà phê không, cô bé?”

“Không hẳn. Nó chẳng ngọt chút nào. Cháu thích sô cô la hơn.”

“Phí thế.”

“Mặc dù vậy nó có mùi rất thơm. Và chỗ này thật sự là thơm nhất,” Rita nói.

“Ah, vậy là cháu vẫn còn hy vọng. Cháu có muốn trông coi cửa tiệm hộ ông khi ông nghỉ hưu không?”

Cha của Rita, cho tới lúc đó vẫn chưa rời mắt khỏi chỗ hạt cà phê ngắt lời. “Đừng có nhét những ý tưởng đó vào đầu con bé. Chúng tôi cần người làm việc trên đồng, và con bé là tất cả những gì bọn tôi có.”

“Vậy có lẽ con bé có thể tìm một thằng bé hay một cô bé hứa hẹn để tôi trao lại cửa tiệm, nhỉ?”

“Cháu không biết, cháu sẽ suy nghĩ về chuyện đó,” Rita hờ hững đáp.

Cha của cô đặt túi cà phê mà ông ngưỡng mộ xuống và quỳ xuống nhìn vào mắt Rita.

“Cha tưởng con muốn giúp chuyện đồng áng?”

Ông cụ vội vàng xen vào, “Để con bé tự suy nghĩ đi. Đây vẫn là đất nước tự do mà.”

Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt non nớt của Rita. “Đúng vậy, Cha. Con phải chọn, đúng không? Chà, chỉ cần họ không bắt con vào quân đội.”

“Cháu cũng không thích quân đội à? UDF cũng không đến nỗi nào đâu mà.”

Cha của Rita gắt lên. “Ông đang nói chuyện với con gái tôi đấy nhé.”

“Nhưng bất kỳ ai cũng có thể đăng ký nhập ngũ khi đủ mười tám tuổi. Chúng ta đều có quyền bảo vệ đất nước mình, con trai hay con gái đều vậy cả. Đấy là một cơ hội không tồi đâu.”

“Chỉ là tôi cũng không chắc tôi có muốn cho con vào quân đội hay không.”

“Cha, ngay từ đầu con đã không muốn nhập ngũ rồi mà.”

“Ồ, tại sao vậy?” Vẻ tò mò hiện rõ trên khuôn mặt ông cụ.

“Mimic không ăn được. Cháu có đọc trong sách là vậy. Và chúng ta không nên giết động vật mà chúng ta không thể ăn chỉ vì mục đích là giết chúng. Cô giáo và mục sư của bọn cháu, bất kỳ ai cũng đều nói vậy.”

“Lớn lên cháu sẽ trở thành một đứa bé bướng bỉnh đây.”

“Cháu chỉ muốn được giống mọi người khác thôi.”

Cha của Rita và ông cụ nhìn nhau rồi khúc khích cười đầy thấu hiểu. Rita không hiểu có gì buồn cười ở đây.

Bốn năm sau, lũ Mimic tấn công Pittsfield. Cuộc đột kích đến giữa một mùa đông khắc nghiệt đã lâu rồi không có. Trên đường, tuyết rơi nhanh đến mức người ta dọn không xuể. Thành phố lạnh tới mức bị đình trệ mọi hoạt động.

Lúc đó chẳng ai biết cả, nhưng Mimic đã gửi một vài con kiểu kiểu như đội trinh sát trước cuộc tập kích, một nhóm nhỏ và cơ động với mục đích tiến xa hết mức có thể rồi đem thông tin chiến lược trở về. Tháng một ấy, ba con Mimic đã lén vượt qua phòng tuyến của UDF và tiến thẳng tới Sông Mississippi mà không bị phát hiện.

Nếu người trong thị trấn không để ý thấy có gì đó đáng ngờ đang di chuyển trong bóng tối, rất có thể đội trinh sát sẽ đặc biệt chú ý tới Pittsfield, với gia súc và nhiều mẫu ruộng đất. Nhưng họ đã để ý, và ngọn lửa khạc ra từ khẩu súng săn giữa màn đêm dẫn tới một cuộc thảm sát.

Hệ thống phòng vệ bị tê liệt do tuyết. Phải mất nhiều giờ thì UDF mới được trực thăng chở tới. Đến lúc đó, một nửa những tòa nhà trong thị trấn đã bị đốt thành tro và một phần ba trong tổng số mười lăm nghìn người trong thị trấn đã bị giết. Thị trưởng, người truyền giáo, cả ông cụ ở tiệm tạp hóa cũng chết.

Những người đàn ông chọn việc trồng ngũ cốc thay vì nhập ngũ đã chết khi chiến đấu để bảo vệ gia đình họ. Những cánh tay nhỏ bé chẳng thể làm gì lũ Mimic. Đạn cũng chỉ sượt qua người nó. Những ngọn giáo của lũ Mimic xé toang những bức tường gỗ và kể cả tường gạch ngọt như xé giấy.

Cuối cùng, một đám người trong trấn, người ngợm tả tơi, đã hạ gục ba con Mimic bằng tay không. Họ đợi cho tới lúc Mimic chuẩn bị bắn thì lao tới chỗ chúng, đẩy mũi giáo của chúng hướng về phía nhau. Họ giết hai con theo cách ấy, và đuổi con thứ ba đi.

Mẹ của Rita quàng tay che chở cho Rita, bà đang hấp hối. Rita nhìn từng bông tuyết rơi khi cha cô chiến đấu và ngã xống. Từng cột khói bay lên từ ngọn lửa. Tro tàn tung bay giữa bầu trởi đêm, tạo ra một khung cảnh tuyệt mỹ. Khung trời rực đỏ màu máu.

Dưới xác chết đã lạnh dần của mẹ cô, Rita suy nghĩ. Mẹ của cô, một con Chiên sùng đạo, đã bảo cô rằng giả vờ khóc là một lời nói dối, và nếu cô nói dối, khi Chúa thử thách linh hồn bất tử của cô thì cô sẽ không được lên thiên đường. Khi mẹ Rita bảo với cô rằng nếu Mimic không chết thì chúng sẽ không được lên thiên đường, cô bé tỏ ra giận dữ. Mimic còn không phải là sinh vật từ Trái đất. Chúng không có linh hồn, đúng không? Nếu chúng có linh hồn, và chúng thật sự có lên thiên đường, Rita tự hỏi con người và Mimic có đánh nhau ở trên đấy không. Có lẽ đó là cái đang chờ đợi cha mẹ cô.

Chính phủ đưa Rita tới sống cùng vài người bà con xa. Cô ăn trộm hộ chiếu từ một người tị nạn lớn hơn cô ba tuổi, sống trong một căn hộ xập xệ nhà bên cạnh và tới văn phòng tuyển dụng UDF.

Xuyên suốt mọi miền tổ quốc, người ta phát chán với chiến tranh rồi. UDF cần càng nhiều lính càng tốt để đẩy ra tiền tuyến.

Đưa mẫu đơn đăng kí ghi rõ không phạm phải tội ác đặc biệt nghiêm trọng nào, và quân đội sẽ không loại bạn ra đâu. Theo luật, Rita vẫn chưa đủ tuổi để đăng kí, nhưng phòng tuyển dụng còn chả thèm liếc tới hộ chiếu ăn cắp của cô trước khi đưa cô hợp đồng.

Quân đội cho người ta một ngày để rút lại đơn nếu họ suy nghĩ lại. Rita, giờ họ là Vrataski, dùng cả ngày cuối cùng để nằm dài trên cái ghế đá đặt bên ngoài văn phòng UDF.

Rita không cần cơ hội suy nghĩ lại. Cô chỉ muốn một việc: giết đến con Mimic cuối cùng đã xâm lược hành tinh cô. Cô biết cô có thể làm được. Cô là con gái của cha cô.


3[]

Trong buổi tối tiếp theo, nhìn về phía một chòm sao mà loài người gọi là Cự Giải. Giữa cái càng cua bên phải của con cua khổng lồ trên bầu trời có một ngôi sao mờ nhạt. Dù bạn có nhìn kĩ thế nào thì cũng không thể nhìn nổi bằng mắt thường. Chỉ có thể quan sát nó bằng kính viễn vọng với tiêu cự ba mươi mét. Dù cho bạn có đi với vận tốc ánh sáng, nhanh tới mức có thể chạy bảy vòng rưỡi quanh trái đất chỉ trong một giây thì cũng mất tới bốn mươi năm để tới được ngôi sao đó. Những tín hiệu từ Trái đất rải rác và tiêu tán trên chuyến hành trình băng qua khoảng cách mênh mông giữa chúng.

Trên một hành tinh quay quanh ngôi sao đó, tồn tại vô vàn sự sống và hệ sinh thái đa dạng hơn trái đất nhiều. Nền văn hóa đặc sắc hơn cả nền văn minh tưởng như đã nở bung hết cỡ của chúng ta, và có những sinh vật với trí thông minh vượt qua cả loài người văn minh. Trong câu chuyện cổ tích này, chúng ta sẽ gọi họ là người.

Một ngày, một người trên hành tinh đó phát minh ra một thiết bị gọi là bom kiến thiết sinh học. Thiết bị này có thể gắn vào mũi tàu không gian. Chiếc tàu không gian này, trông rất đơn giản, chả giống một con tàu mang trọng trách bảo bọc sự sống và phương tiện cần thiết để duy trì nó chút nào, băng qua không gian một cách thoải mái. Sau khi tới được đích, khoang chở hàng của con tàu mở bung ra, khiến những con nanobot rơi như mưa trên bề mặt hành tinh.

Ngay khi đến nơi, bọn nanobot bắt đầu định hình lại thế giới, chuyển hóa những môi trường khắc nghiệt thành nơi phù hợp để cho những người tạo ra tụi robot đóng thuộc địa. Quy trình thực tế thì phức tạp hơn nhiều, nhưng mà chi tiết trong đó thì không quan trọng. Con tàu chở những kẻ thực dân tới thế giới mới sau khi lũ nanobot đã hoàn thành xong công cuộc chuyển hóa.

Những học giả trong số những người đó đặt ra câu hỏi: liệu có đạo đức không khi hủy diệt môi trường vốn có của hành tinh đó mà không khảo sát nó trước đã. Sau cùng thì, cái gì đã xảy ra thì sẽ không quay ngược lại được. Có vẻ rất logic khi kết luận rằng một hành tinh đã sẵn sàng để đáp ứng cho sự sống từ thế giới của họ cũng có thể đã chứa đựng sự sống của những sinh vật bản xứ của riêng nó, có lẽ còn có cả những sự sống có trí tuệ nữa. Liệu đây là đúng hay sai khi ăn cắp một thế giới, khi chưa được kiểm định, từ những cư dân bản địa?

Những người tạo ra thiết bị đó tranh luận rằng công cuộc khai hóa của họ được xây dựng trên nền sự tiến bộ không thể quay ngược được. Để mở rộng lãnh thổ, họ chưa hề né tránh việc hy sinh những sinh mạng cấp thấp hơn trong quá khứ. Rừng cây đã bị dọn sạch, sông hồ bị hút cạn, đập được xây lên. Đã có vô vàn những ví dụ cho việc con người hủy hoại môi trường sống và đưa những giống loài khác tới bờ vực tuyệt chủng vì mục đích riêng của họ. Nếu họ đã có thể làm thế trên hành tinh của riêng họ, tại sao một thế giới còn chưa biết rõ trong khoảng không gian bao la này lại được đối xử khác biệt?

Những học giả chỉ ra rằng quy trình thiết lập sinh thái của một hành tinh có chứa sự sống thông minh cần sự giám sát trực tiếp. Sự phản kháng của họ được ghi nhận, cân nhắc và hoàn toàn bỏ qua.

Có nhiều vấn đề đáng quan ngại hơn chuyện bảo tồn sự sống vô tình bị xóa sổ trong chiến dịch kiến thiết sinh học. Những người đó đã tăng trưởng quá nhanh trên hành tinh của họ, vậy nên họ cần một hành tinh khác để chia sẻ gánh nặng dân số. Ngôi sao mẹ của thế giới được chọn không được cách quá xa, ngôi sao đó cũng không được phép là chòm song sinh hay sao lùn trắng. Bản thân hành tinh phải có khả năng duy trì quỹ đạo quanh một ngôi sao loại G cách một khoảng thích hợp để nước có thể tồn tại ở dạng lỏng. Hệ sao thỏa mãn những tiêu chuẩn kia được gọi là hệ mặt trời. Họ không lo lắng quá nhiều về việc ngôi sao này có thể là ngôi sao duy nhất ở góc Dải Ngân Hà này có điều kiện trở thành nhà của những sự sống có trí tuệ như họ. Không hề có nỗ lực cố giao tiếp. Hành tinh cách đó bốn mươi năm ánh sáng, và chẳng có thời gian để mà ngồi tám mươi năm chờ đợi một bức hồi âm.


* * *


Tàu không gian chế tạo trên một hành tinh xa xôi cuối cùng cũng tới được Trái Đất. Trên nó không có một thành viên nào trong giống loài của họ. Không có vũ khí xâm lược nào. Nó chỉ đơn giản là một cỗ máy xây dựng không hơn.

Khi nó được phát hiện, con tàu giữa các vì sau khiến cả thế giới chú ý. Nhưng tất cả nỗ lực để giao tiếp của Trái Đất đều không được phản hồi. Rồi con tàu tách thành tám mảnh. Bốn mảnh chui sâu xuống đáy đại dương, còn ba mảnh khác thì rơi trên đất liền. Mảnh cuối cùng ở nguyên trên không gian. Những mảnh rơi tại Bắc Phi và Australia được đưa tới NATO. Nga và Trung quốc tranh giành mảnh rơi ở Châu Á, và Trung quốc là nước giành được thắng lợi chung cuộc. Sau nhiều hồi tranh luận giữa các quốc gia trên Trái Đất, con tàu mẹ ở trên không bị bắn tan tành bởi một loạt tên lửa đạn đạo.

Những cỗ máy sâu dưới lòng đại dương bắt đầu triển khai công cuộc kiến thiến trong im lặng và trật tự. Dưới biển sâu, những cỗ máy biến đổi thành một loài sinh vật da gai –– sao biển. Những con nanobot xâm nhập vào bên trong bộ xương của sao biển và bắt đầu sinh sôi nảy nở và sống cộng sinh cùng vật chủ.

Kết quả của sự kết hợp là một loài sinh vật ăn đất. Chúng ăn cả thế giới và nôn ra chất độc. Những thứ tuôn ra khỏi cơ thể chúng là độc dược với sự sống trên Trái đất, nhưng lại phù hợp với những người đã gửi chúng tới. Từ từ và chậm rãi, những mảnh đất mà các sinh vật đó ăn chết dần và trở thành hoang mạc. Những đại dương mà chúng đặt chân tới biến thành một màu xanh nhờ nhờ như sữa.

Đầu tiên người ta cứ tưởng rằng những sinh vật đó là sản phẩm của sự biến đổi do các phản ứng hóa học, hay có thể là những thực thể sống từ thời tiền sử bị giải phóng do các hoạt động địa chất. Vài nhà khoa học kiên định cho rằng đó là loài tiến hóa từ loài kỳ nhông, mặc dù họ chẳng có chứng cứ nào chứng minh kết luật đó. Cuối cùng, những giống loài mới đó tụ tập thành từng nhóm và bắt đầu liều lĩnh lao ra khỏi mặt nước. Chúng tiếp tục công việc tái kiến thiết lại trái đất và mặc kệ xã hội loài người.

Khi chúng lần đầu tiên đặt chân lên mặt đất, những con quái vật ngoài hành tinh đó chưa phải là những vũ khí chiến tranh. Chúng chậm chạp, và một nhóm người có vũ trang có thể dễ dàng kết liễu chúng. Nhưng giống như loài gián trở nên miễn nhiễm với thuốc trừ sâu, những sinh vật ngoài hành tinh tiến hóa. Những cỗ máy sinh học tạo ra chúng kết luận rằng để hoàn thành mục tiêu tái kiến thiết hành tinh, chúng phải loại bỏ mọi vật cản.

Chiến tranh bao trùm thế giới. Thương tổn leo thang và nặng nề. Để đáp lại, một lực lượng Liên quân UDF được thành lập. Loài người đặt ra một cái tên cho kẻ thù đã đưa thế giới tới bờ vực diệt vong. Chúng ta gọi chúng là Mimic.


4[]

Rita Vrataski gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ sau trận chiến giúp cô giành được Huân chương Dũng cảm Thor. Cái huân chương, bên trên được tạc hình một vị thần vung cao chiếc búa, được trao cho bất kỳ người lính nào giết mười con Mimic hoặc hơn trong một trận chiến. Lũ Mimic là những kẻ thù duy nhất có khả năng kháng cự lại một tiểu đội năm mươi lính bộ binh vũ trang đầy đủ xả đạn như mưa xuống đầu. Người ta cũng chẳng cần phải sản xuất ra nhiều huân chương Thor lắm.

Gã sĩ quan treo cái huy chương bóng loáng lên cổ của Rita khen ngợi cô vì đã tham gia vào lực lượng tinh nhuệ dành cho những người có thể giết Mimic nhiều gấp đôi người thường. Rita là người lính đầu tiên trong lịch sự nhận được danh hiệu đó sau trận chiến thứ hai. Có người còn đến trước mặt cô mà hỏi, làm sao Rita có thể có được những kĩ năng thượng hạng để hoàn thành một kì tích như vậy chỉ sau hai chiến dịch. Rita trả lời họ bằng một câu hỏi khác:

“Nấu ăn có nguy hiểm không?”

Phần lớn sẽ trả lời là không. Nhưng không phải bình ga là một khẩu súng phun lửa tầm bắn ngắn sao? Ở dưới một căn bếp phổ thông luôn ẩn chứa cả mớ vật liệu dễ cháy. Những cái kệ treo lỉnh kỉnh những cái chảo có thể tuột ốc và rơi như mưa xuống. Một con dao xẻ thịt có thể giết người ngọt như chủy thủ vậy.

Thế mà chẳng mấy ai coi nấu nướng là một công việc nguy hiểm cả, và quả thực, mối nguy hiểm thực sự chỉ còn là dĩ vãng. Bất kỳ ai đã từng vào bếp đều đã quen thuộc với những mối nguy hiểm cơ bản cũng như biết cái gì an toàn, cái gì không. Không được đổ nước trên dầu sôi, để mũi dao cách xa động mạch chủ của bạn, không sử dụng thuốc diệt chuột khi công thức nấu nướng có ghi pho mát.

Với Rita, chiến tranh cũng chẳng khác gì.

Những đợt tấn công của lũ Mimic vô cùng đơn giản. Chúng làm Rita nhớ về lũ lợn cô nuôi hồi còn ở Pittsfield. Những người lính có thể lựa một con trong một đám Mimic để tấn công, nhưng Mimic thì không thể làm điều tương tự. Như một cây chổi quét sạch cát bụi trên sàn nhà, Mimic tấn công cả nhóm chiến binh một lần. Chỉ cần bạn biết cách để né cái chổi, dù Mimic có tấn công bao nhiêu lần thì bạn cũng chẳng thể bị quét bay. Bí mật để chiến đấu với Mimic không phải là né tránh hiểm nguy, bí quyết là hãy đâm đầu vào nó.

Lần tới cứ thử đi. Đơn giản thôi.

Thường thường thì thế là quá đủ để bọn họ để mặc cô ấy một mình. Họ sẽ đứng hình, nhún vai bất đắc dĩ.

Rita, chỉ mới mười sáu tuổi, không hiểu tại sao cô lại tài năng như vậy trên chiến trường. Đáng lẽ cô sẽ vui hơn nếu như có một miếng bánh nướng thịt ngon lành, hay được nhìn thấy tuyết rơi, nhưng có vẻ như Chúa rất có khiếu hài hước. Ông ấy hẳn đã để ý thấy cô suốt ngày ngủ gật trong buổi thú tội tại nhà thờ mà Chủ nhật nào cha mẹ cũng đưa cô tới.

Lực lượng Đặc nhiệm là nơi dành cho những người theo chủ nghĩa cá nhân, những người gặp vấn đề về ứng xử. Bất kỳ ai trong đội đều từng là kẻ giết người hàng loạt được cho phép chọn một trong hai nơi, quân đội và đài xử tử. Họ là những người sẽ bắn thủng sọ bất kỳ ai tới nó chuyện, và họ coi đồng đội và lũ Mimic là một khi bắn ra những viên đạn 20mm. Đó là một nhiệm vụ nặng nề, và họ luôn tìm kiếm thêm người để thế chỗ cho những cái xác lạnh lẽo bị đưa lên bảng đếm số.

Thực ra, đội của Rita hóa ra lại là một đội toàn là những tay kỳ cựu. Nếu bạn đem chỗ huy chương họ kiếm được trong đội đi nung chảy, bạn có thể đúc được một thanh tạ cho thế vận hội Olympic ấy chứ.

Một đội đầy những gã badass, những người đều đã đi một vòng quanh địa ngục rồi quay trở lại không biết bao nhiêu là lần, không thể coi họ là người được, họ tương tự như Ác quỷ. Khi đạn bắt đầu bay thì họ liền bắt đầu kể chuyện cười. Không phải là loại chuyện cười mà bạn có thể kể cho mẹ nghe trong bữa ăn đâu. Tuy nhiên, trái ngược với tiếng xấu của họ, vẫn có một vài gã có thể coi là tốt tính. Rita hòa nhập với những người đồng đội mới ngay lập tức.

Thượng úy tên Arthur Hendricks là người cầm đầu cả nhóm. Anh ta có mái tóc vàng hoe bóng lộn, đôi mắt xanh sắc sảo, và một người vợ xinh đẹp, thanh tú đến mức khi ôm cô ấy vào lòng bạn phải cẩn thận kẻo làm cô ấy bị thương. Dù chiến dịch lớn hay nhỏ, Hendricks luôn gọi về cho vợ trước, chính vì vậy anh thường xuyên bị những người còn lại trong đội chế giễu.

Trong một đội nơi cả đàn ông lẫn phụ nữ đều sử dụng cái thứ ngôn ngữ thô tục đến mức có thể tiễn một bà sơ tới bệnh viện do lên cơn trụy tim, Hendricks là người duy nhất không hề tuôn ra một lời khiếm nhã nào. Ban đầu anh ta coi Rita như cô em gái nhỏ, khiến cô sợ chết khiếp. Cô không bao giờ chấp nhận chuyện đó, nhưng cô bắt đầu thích nó.

Rita đã ở trong đội được khoảng nửa năm cho tới khi bị kẹt trong vòng lặp thời gian, thứ thay đổi hoàn toàn giai điệu của đời cô. Cuộc chiến biến Rita Vrataski thành Valkyrie là một chiến dịch vô cùng đặc biệt, đến cả Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ cũng không thể coi thường. Tổng thống chuẩn bị tái ứng cử, và ông ta muốn dùng một chiến thắng quân sự để củng cố địa vị của bản thân.

Bất chấp sự phản đối của những người trong ban chỉ huy cùng dư luận, ông ta dốc hết tất cả vào chiến dịch, mọi chiếc xe tăng với bánh xích, mọi chiếc máy bay lên thẳng có thể cất cách, và hơn mười ngàn tiểu đội lính Chiến giáp. Mục tiêu của họ: giành lại quyền kiểm soát tại bán đảo Florida. Đây là trận chiến nguy hiểm nhất, liều lĩnh nhất và cũng là trận chiến quy mô nhất mà Rita từng được thấy.

Trong từ điển của Lực lượng Đặc nhiệm có rất nhiều từ có 2 chữ cái, nhưng từ ‘sợ’ không phải là một trong số chúng. Kể cả vậy, chỉ một đội như Lực lượng Đặc nhiệm còn lâu mới đủ để xoay chuyển cuộc chiến vô vọng trước một kẻ thù ưu việt. Chiến giáp ban cho con người sức mạnh phi nhân loại, nhưng thế vẫn chưa đủ để biến con người trở thành những siêu anh hùng. Trong Chiến tranh Thế giới II, Erich Hartmann đã bắn rớt 352 máy bay tại tiền tuyến của Nga, nhưng Đức quốc xã vẫn thua trận chiến. Nếu những gã thượng cấp lên những kế hoạch bất khả thi thì nhiệm vụ chắc chắn sẽ thất bại, đơn giản thế thôi.

Sau trận chiến, xác Chiến giáp nằm la liệt tại bán đảo Florida, những vỏ giáp tan tác trở thành quan tài cho những cái xác bên trong.

Không hiểu tại sao nhưng Rita Vrataski đã bước một chân qua lằn ranh mỏng như sợi dây đàn piano chia cắt sống và chết. Cô đã bẻ cong khẩu khoan phản lực trước khi nó hoàn toàn hết xài. Cô sắp hết đạn. Cô siết chặt khẩu súng trường 20mm chặt tới mức nó như bị hàn chặt vào tay cô. Cố gắng chống lại cảm giác buồn nôn, cô tháo pin năng lượng từ những cái xác của những người bạn đã ngã xuống. Khẩu súng trường tựa vào hai bàn tay.

“Ngày hôm nay có vẻ không tốt lành là mấy nhỉ.”

Đó là Hendricks. Anh ta ngồi bên cạnh Rita, trong một cái hốc mà cô đang ngồi chổm hổm, và ngửa mặt nhìn trời, cứ như muốn đoán hình dạng của những đám mây trên cao. Ngay phía trước họ, Một mũi giáo, gào thét với âm thanh rền rĩ tần số cao, bắn thẳng xuống đất. Khói đen dày cộm cuồn cuộn phun lên từ miệng hố. Hình ảnh về một Pittsfield bùng cháy dưới gầm trời đỏ rực chiếm trọn lấy tâm trí Rita.

Hendricks biết anh phải gọi Rita trở về. “Mẹ của anh từng bảo anh rằng ở một vùng tại Trung quốc, họ trộn máu động vật cùng trà.”

Rita không thể nói. Cổ họng của cô giờ như tờ giấy nhám, và cô rất hoài nghi không biết mình còn nuốt xuống được không.

Hendricks tiếp tục. “Những người du mục ở đó đều có thể cưỡi ngựa. Đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Vào thời Trung cổ, chính sự cơ động của họ đã khiến họ có thể xâm chiếm cả một vùng Á Âu. Cả châu Âu cũng không thoát được. Họ tới từ phương Đông, băng qua từng quốc gia một ­­–– những người ngoại quốc hoang dại nhỏ máu vào trong cốc trà –– càng lúc càng tới gần. Chỉ thế là quá đủ để khiến em gặp ác mộng. Có người nghĩ rằng thực ra những người du mục Trung Hoa kia đã khiến rộ nên huyền thoại về ma cà rồng ở Đông Âu.”

“.... Thượng úy?”

“Câu chuyện của anh chán lắm à?”

“Em ổn rồi, Thượng úy. Em xin lỗi. Chuyện này sẽ không xảy ra lại đâu.”

“Này, chúng ta đều cần nghỉ ngơi mà. Đặc biệt là trong một buổi marathon như thế này. Chỉ thêm một chút nữa thôi là chúng ta có thể chạy về tắm vòi hoa sen rồi. Anh hứa đấy.” Anh ta thôi nói chuyện và lại chỗ người lính tiếp theo. Rita lại quay lại vùng giao chiến.

Và rồi cô thấy nó. Một con Mimic nổi bật hơn hết thảy. Trông nó chẳng khác gì những con khác –– một con ếc chết trôi trong vùng nước lợ. Nhưng có thứ gì đó khiến nó trở nên khác biệt. Có lẽ do đứng trên lằn ranh sống chết quá lâu đã làm những giác quan của cô trở nên sắc bén từ khi nào không rõ, vén bức màn bí mật không thể nhìn thấy bằng mắt thường.

Khi cô giết con Mimic đó, vòng lặp bắt đầu,


* * *


Luôn có một con Mimic là trái tim của cả hệ thống, kiểu như nữ hoàng ấy. Giao diện bề ngoài của nó không khác gì những con khác. Như kiểu với những người không nuôi lợn thì con lợn nào cũng như con lợn nào ấy, điểm khác biệt giữa con Mimic đó và đống còn lại chỉ có Rita mới thấy. Không hiểu tại sao, sau khi chiến đấu và tàn sát hằng hà sa số con Mimic, cô bắt đầu có thể phân biệt được chúng. Đó là vấn đề thuộc bản năng, bị giới hạn trong tiềm thức. Cô không thể giải thích sự khác biệt nếu cô cố thử.

Nơi tốt nhất để giấu một cái cây là ở trong một khu rừng.

Nơi tốt nhất để giấu một sĩ quan là ở trong cả đội bộ binh.

Con Mimic là trái tim của mỗi đoàn được dấu kín bằng cách đem nó phơi lồ lộ ra. Cứ nghĩ nó là một server trong mạng lưới.

Khi bạn giết chết server, mạng lưới Mimic sẽ phát ra một loại tín hiệu đặc hiệu. Những nhà khoa học về sau phát hiện ra đó là xung tachyon, kiểu kiểu thứ có thể đi du hành thời gian, nhưng Rita thì chả hiểu họ nói cái gì cả. Phần quan trọng là tín hiệu tỏa ra từ lũ Mimic đã mất server khiến thời gian quay ngược lại để cảnh báo cho chúng về mối nguy hiểm chúng phải đối mặt.

Mối nguy hiểm xuất hiện trong bộ nhớ của Mimic dưới dạng một điềm gở, một khung cửa sổ hướng tới tương lai. Lũ Mimic thu được tầm nhìn từ ô cửa sổ có thể thiết lập hành động để vượt qua mối nguy hiểm đang chờ đợi chúng. Đây chỉ là một trong số vô vàn công nghệ được khám phá bởi chủng tộc tối ưu từ một ngôi sao xa xôi. Quy trình đó vốn được thiết lập trong mỗi cỗ máy xây dựng, đóng vai trò là hệ thống cảnh báo để ngăn chặn vài tai nạn chết tiệt cản trở kế hoạch của người ngoài hành tinh, cái kế hoạch đã đợi quá lâu để được triển khai.

Nhưng Mimic không phải là những con duy nhất hưởng lợi từ những tín hiệu đó. Giết một con Mimic server trong khi liên lạc điện tử với nó, và người đó nhận được món quà tương tự, khả năng nhìn trước tương lai vốn dành cho mạng lưới. Tín hiệu tachyon được gửi tới quá khứ không phân biệt con người và mimic, và khi nó tới, những người đó thấy được điềm gở dưới dạng một giấc mơ siêu thực, chính xác đến từng chi tiết.

Để thực sự hạ gục được một quân đoàn Mimic, đầu tiên bạn phải tiêu diệt mạng lưới của chúng cùng tất cả những bản backup (sao lưu) trong đó, rồi tiêu diệt con Mimic server. Nếu không, dù bạn có thử bao nhiêu chiến thuật khác nhau đi chăng nữa, Mimic vẫn sẽ liên tục phát triển một kế hoạch phản công để đảm bảo chúng tiếp tục sống sót.


* * *
  1. Phá hủy cái ăng ten
  2. Tàn sát bất kỳ con Mimic nào được dùng để backup cho mạng lưới.
  3. Một khi khả năng gửi tín hiệu về quá khứ bị loại trừ, giết con server.


Ba bước đơn giản để trốn thoát tới tương lai. Rita mất 211 vòng lặp để xác định được.

Không ai tin những gì Rita nói. Quân đội đã quen xử lý những thông tin cụ thể. Không ai quan tâm tới một câu chuyện viễn tưởng về vòng lặp thời gian. Khi Rita cuối cùng cũng đánh vỡ vòng lặp và tới tương lai, cô nhận ra Arthur Hendricks đã chết. Anh ấy chỉ là một trong hai mươi tám ngàn người bị giết trong trận chiến.

Trong hai ngày Rita đã dùng để chiến đấu trong một vòng tròn vô hạn, cô đã nghiên cứu được lịch sử của chiến tranh, lướt qua nhiều đầu tin tức để tìm thông tin về Mimic, và vớ được một kỹ sư dở hơi để làm rìu chiến hộ cô. Cô đã thành công đánh vỡ vòng lặp, hòng thay đổi tương lai của chính cô, vậy mà tên của Hendricks cuối cùng vẫn được in trong danh sách tử nạn.

Rita cuối cùng cũng hiểu được. Đây mới là chiến tranh. Mỗi người lính chết trong chiến trận chẳng là gì khác ngoài một biến số trong phép toán tích phân ước tính thiệt hại. Nỗ lực của họ, niềm vui, và nỗi sợ hãi không bao giờ được đưa vào phương trình. Có người sống, có người chết. Tất cả đều phụ thuộc vào cái mà diêm vương thần gọi là xác suất. Với ưu thế có được những kinh nghiệm trong vòng lặp, Rita có thể vượt qua vài trở ngại và cứu được vài người trong tương lai. Nhưng luôn có những người cô không thể cứu. Những người có cha, có mẹ, có bạn bè, có thể là cả anh chị em, vợ chồng con cái. Nếu cô tiếp tục vòng lặp thứ 211, có thể cô sẽ cứu được Hendricks –– nhưng cái giá phải trả là gì? Rita Vrataski là người duy nhất trong vòng lặp, và để cô có thể thoát ra, phải có người chết.

Hendricks đã gọi cuộc điện thoại cuối cùng trước trận chiến đó. Anh ấy biết được anh ấy vừa trở thành một người cha, và anh rất thất vọng khi thấy tấm ảnh con của anh mà anh in ra và dán trong Chiến giáp đã bị dính bẩn. Anh muốn trở về nhà, nhưng anh đặt nhiệm vụ lên hàng đầu. Rita đã nghe cuộc điện thoại đó 212 lần. Cô thuộc nằm lòng nó rồi.

Rita được trao một tấm huân chương vì những đóng góp nổi bật trong chiến trường –– Huân chương Valkyrie, được trao cho những người lính giết được hơn một trăm con Mimic trong một trận chiến. Họ đã tạo ra tấm huân chương đó chỉ dành cho cô. Và tại sao không? Người lính duy nhất trên cả hành tinh có thể giết được nhiều Mimic đến vậy trong một trận chiến chỉ có Rita Vrataski mà thôi.

Khi tổng thống gắn tấm huy chương lấp lánh lên ngực Rita, ông ta ca tụng cô như một thiên thần báo thù trên chiến trường và tuyên bố cô là một tài sản quốc gia. Cô đã trả giá cho tấm huân chương đó bằng máu của những người anh em của cô.

Cô không hề nhỏ một giọt nước mắt. Thiên thần không có khóc.



5[]

Rita được tái bổ nhiệm. Cái tên Full Metal Bitch cùng nỗi sợ hãi nó tạo ra lan tràn khắp quân đội. Một tổ nghiên cứu tuyệt mật được tạo ra để nghiên cứu vòng lặp thời gian. Sau khi đâm, thọc và thăm dò Rita, con chuột bạch được trao một bản báo cáo rằng có thể những vòng lặp đã ảnh hưởng tới não bộ của Rita, đó là nguyên nhân khiến cô đau đầu, và một nửa tá những thứ ba láp ba xàm khác chả giúp được cái gì. Nếu như nó có thể giúp quét sạch toàn bộ Mimic ra khỏi bề mặt trái đất, cô chả ngại nếu họ bổ đôi đầu cô ra.

Tổng thống đã trao cho Rita toàn quyền tự trị trên chiến trường. Cô càng lúc càng ít giao tiếp với những thành viên khác trong đội. Cô có một cái tủ khóa cho thuê ở New York nơi cô cất những cái huy chương cứ liên tục tràn vào.


6[]

Rita đóng quân tại Châu Âu. Cuộc chiến vẫn tiếp tục.


7[]

Bắc Mỹ.

Khi Rita nghe tin nơi tiếp theo được phân công là hòn đảo nào đó ở vùng Viễn Đông, cô đã rất vui. Những cái xác da vàng sẽ là chút nhạc đệm mới mẻ thay cho những cái xác màu đen hay màu trắng thông thường tại các chiến tuyến ờ Châu Âu. Tất nhiên, dù ở đó họ có ăn nhiều cá sống tới mấy thì khi mũi giáo của Mimic đâm xuyên qua người họ cùng với chiến chiến giáp thì máu của họ cũng phun ra với màu đỏ y như vậy thôi. Về tổng thể mà nói, cô cũng chán cảnh nhìn thấy chúng rồi.


8[]

Rita không xa lạ gì với kỹ thuật câu cá chim cốc, một kỹ thuật truyền thống của Nhật Bản. Ngư dân buộc một cái dây ở dưới cổ của một con chim cốc đã được huấn luyện, vừa đủ chặt để ngăn không cho nó nuốt mất mấy con cá to hơn cả bản thân nó mà nó bắn được, và rồi gỡ dây ra đủ dài để con chim có thể lặn xuống nước để bắt cá. Khi con chim cốc đã bắt được một con, ngư dân sẽ kéo con chim lên và bắt nó nhả cá ra. Rita cảm thấy mối quan hệ giữa cô và quân đội giống hệt như mối quan hệ của con chim cốc với người ngư dân vậy.

Rita vào quân đội bởi vì đó là cách cô kiếm sống. Công việc của cô là đi ra ngoài và giết Mimic và mang những cái xác về cho những chủ nhân của cô. Để đáp lại, họ cho cô bất cứ thứ gì cô cần để sống và giải quyết những rắc rối nho nhỏ trong cuộc sống mà cô còn không biết nó có tồn tại. Đó là mối quan hệ cho – nhận, và trong đầu, cô nghĩ thế là công bằng.

Rita chẳng sướng sung gì khi trở thành vị cứu tinh của trái đất, nhưng nếu đó là điều quân đội muốn, vậy thì cứ thế đi. Trong những thời kỳ đen tối thì thế giới cần một hình tượng để vực dậy tinh thần cho mọi người.

Phòng tuyến tại Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Nếu kẻ thù vượt qua được Kotoiushi, Mimic sẽ tràn vào những khu phức hợp công nghiệp trên hòn đảo chính. Với những nhà máy cùng những công nghệ tiên tiến mà Nhật Bản cung cấp bị mất, khoảng 30% hiệu suất của Chiến giáp sẽ bị tụt. Những phân nhánh khác trong UDF sẽ rơi rụng lả tả.

Nếu không có ai ngăn chặn quá trình truyền tín hiệu tachyon, trận chiến sẽ không bao giờ kết thúc. Về mặt lý thuyết thì hoàn toàn có thể càn quét chúng với lực lượng vượt trội. Sau vài vòng lặp lũ Mimic sẽ nhận ra chúng không thể nào chiến thắng, và chúng sẽ rút lui, nhận càng ít thiệt hại càng tốt. Nhưng việc hạ gục chúng thì không đơn giản như vậy. Chúng chỉ đơn giản là rút lui xuống bên dưới đáy đại dương, ngoài tầm với của loài người, và tập hợp sức mạnh. Một khi chúng tích tụ được lực lượng không gì ngăn nổi, chúng sẽ lại tấn công, và sẽ không có cơ hội thứ hai để ngăn chúng lại.

Chiến đấu trong cuộc chiến với Mimic cũng giống như chơi một trò chơi với đứa con của bạn vậy. Chúng đã quyết định rằng chúng nhất định phải thắng ngay từ lúc trò chơi bắt đầu, và chúng sẽ không từ bỏ tận tới khi chúng dành chiến thắng. Từng chút một, lãnh thổ của loài người càng ngày càng bị ăn mòn dần.

Độ dài của vòng lặp của lũ Mimic khoảng xấp xỉ ba mươi tiếng. Rita lặp lại mỗi vòng lặp chỉ một lần. Lần đầu tiên qua một trận chiến cô ước tính thiệt hại mà đội của cô phải nhận; lần thứ hai thì cô chiến thắng. Trong vòng lặp đầu cô sẽ xem xét chiến lược là gì và biết được ai sẽ chết. Nhưng mạng sống của những người bạn của cô đều phụ thuộc vào bàn tay không khoan nhượng của định mệnh. Đó là điều không thể thay đổi.

Trước mỗi trận chiến, Rita tự tách biệt mình để loại bỏ mọi suy nghĩ. Một trong những đặc quyền của cô tại nơi cô đóng quân là Rita được cấp một phòng riêng mà không ai được phép vào.

Đội của Rita hiểu rằng ba mươi tiếng trước khi trận chiến bắt đầu là khoảng thời gian đặc biệt đối với cô. Những người lính phổ thông trong đội không nhận ra vòng lặp thời gian, nhưng họ biết Rita có những lý do riêng để không muốn nói chuyện với ai trước mỗi trận chiến. Họ giữ khoảng cách bằng tất cả lòng tôn trọng. Mặc dù không gian riêng chính là những gì Rita muốn, nhưng nó vẫn khiến cô thấy cô đơn.

* * *


Tại phòng nghỉ trên không, Rita đang thầm hâm mộ làn nước lấp lánh của Thái Bình Dương. Kiến trúc duy nhất tại Căn cứ Tuyến Flower mà cao hơn tòa tháp của Rita chỉ có ăng ten radio gần đó. Trên thực tế, tòa tháp sẽ là mục tiêu đầu tiên khi Mimic tràn vào bờ. Bạn chỉ có thể cười nhạo trước sự liều lĩnh khi phòng nghỉ của sĩ quan lại đặt ở một nơi yếu nhược đến vậy. Đây là vấn đề mà những đất nước chưa bị xâm lược hay gặp phải.

Nhật Bản đã thành công tránh thoát được móng vuốt của chiến tranh. Nếu hòn đảo này ở cách xa Châu Á một chút, nó đã bị biến thành sa mạc từ lâu rồi. Nếu nó ở gần hơn, vậy nó đã bị lũ Mimic xâm lược ngay trước khi tiến vào lục địa. Hòa bình mà Nhật Bản được hưởng đều nhờ vào may mắn.

Khu vực ở bên cạnh phòng nghỉ sĩ quan cấp cao rộng đến mức thừa thãi và gần như trống không. Cảnh biển nhìn từ đây phải ngang tầm khác sạn năm sao. Trái ngược lại, chiếc giường đa năng với khung làm từ ống thép đặt ở giữa phòng cứ như thể tay nào đó cố ý chơi khăm chèn vào.

Rita ấn một cái nút. Pha lê lỏng chứa tấm kính cường lực tràn vào, trở thành tấm rèm che đi khung cảnh. Cô đã chọn phòng tiếp đón của sĩ quan cấp cao làm nơi nghỉ ngơi vì đây là nơi những thành viên khác trong đội ít khi lui tới. Hệ điều hành cài đặt trong mỗi người bọn họ đều được lập trình cho chiến tranh. Họ sẽ không bao giờ bước một bước lại gần một tòa nhà đứng làm mục tiêu một cách đầy khiêu khích như vậy. Bản thân Rita thì chẳng quan tâm tới chuyện đó lắm.

Để xoa dịu nỗi sợ hãi của cô, một kỹ sư Nhật Bản đã giải thích rằng tấm kính được đan xen với cacbon hoạt tính, cho phép nó có sức chịu đựng ngang ngửa vỏ giáp của Chiến giáp. Nếu thứ đó tuyệt vời đến vậy, Rita tự hỏi tại sao nó không hoạt động hiệu quả tới vậy nơi tiền tuyến. Ít nhất tại đây cô được ở một mình. Ngày tiếp theo cô sẽ phải nhìn một trong những người bạn của cô chết. Cô không muốn mình phải nhìn vào mắt họ.

Một tiếng gõ cửa khe khẽ đánh thức Rita giữa dòng suy nghĩ. Tấm kính tại cửa vào cũng đã đổ đầy pha lê lỏng. Nó ngăn cách hoàn toàn với bên ngoài.

“Tôi không cho phép sự quấy nhiễu trong vòng ba mươi tiếng tới. Để tôi một mình.”

Không ai đáp lại. Cô cảm nhận thấy có một sự hiện diện kỳ dị từ bên kia cánh cửa. Cứ như một con thú non đang bị săn lùng bởi cả đàn sói, hay một người phụ nữ bị lạc trong ngõ tối. Đó chỉ có thể là Shasta.

Rita ấn cái nút. Tấm kính lại trở nên trong suốt, lộ ra một cô nàng dân Mỹ chính tông xinh xắn đứng ngay trước cửa. Thượng úy Shasta Raylle lớn tuổi hơn Rita và, theo lý thuyết, quân hàm cao hơn cô, nhưng Valkyrie không phải luồn cúi trước bất kỳ kỹ sư nào. Tuy vậy, Rita thấy thái độ nhường nhịn và tôn trọng của Shasta rất đáng yêu.

Thịch.

Shasta đập trán vào cửa kính. Cô tưởng lầm cái cửa kính đột nhiên trong suốt tức là nó đã mở ra và đi thẳng vào. Cô đang cầm trong tay cái gì đó rồi tì nó lên trán. Cô ngã ra sàn, run rẩy như một chiếc lá. Khó mà tin được bộ não bên trong cái đầu đó lại tuyệt vời đến thế. Lại đụng thêm lần nữa, có lẽ mấy thiên tài đều như vậy. Có người gọi Rita là một thiên tài quân sự, và thực ra cô cũng không khác người thường nhiều đến thế. Thứ duy nhất khác biệt mà cô có là năng lực tập trung. Suy nghĩ của Shasta luôn đặt hết vào thứ cô cầm trên tay, cũng như sự tập trung của Rita thì dồn vào trận chiến sắp tới.

Rita mở cửa ra. Cặp kính của Shasta vẫn đang xiêu vẹo sau cú chấn với tấm kính. Vừa đứng dậy, cô vừa chỉnh lại nó.

“Xin lỗi cô. Nhưng có thứ này tôi phải cho cô xem. Tôi hết sức, hết sức xin lỗi.” Shasta cúi đầu xuống và lại đụng đầu vào cánh cửa vẫn còn đang khép một nửa. Lần này cô đụng phải góc cửa.

Thịch.

“Ối.” Shasta lại ngã ra đất.

“Không cần xin lỗi. Cô luôn được chào đón, Thượng úy. Không có cô thì lấy ai lo cho Chiến giáp của tôi đây.”

Shasta nhìn chằm chằm xuống chân, mắt ngân ngấn nước.

“Cô lại gọi tôi là thượng úy! Làm ơn gọi tôi là Shasta đi mà.”

“Nhưng, Thượng úy ––“

“Shasta! Tôi chỉ muốn mọi người coi tôi là một người bình thường mà nói chuyện.”

“Được rồi, được rồi. Shasta.”

“Thế có phải tốt không.”

Rita mỉm cười. “Vậy... cô có gì muốn cho tôi xem à?”

“Đúng vậy,” Shasta nói. “Nhìn này. Cô sẽ không tin được đâu.”

Shasta mở tay ra. Rita nhìn kĩ vào vật thể kỳ lạ nằm trong lòng bàn tay nhỏ nhắn. Chỉ hơi lớn hơn một viên đạn 9mm một chút, mang hình dạng rất rối rắm và được sơn màu đỏ sáng. Rita có nghe đồn có người sơn đầu đạn của họ bằng một màu riêng biệt để phân biệt loại đạn, nhưng sơn nguyên cả viên thì chưa.

Cô cầm nó lên. Nó có hình thù giống hình người.

Shasta liến thoắn. “Đây là tuyệt mật, phải không? Có người trong căn cứ đã kể cho tôi nghe về chúng. Tôi đã đi tới tận Tateyama để lấy nó. Tôi đã tốn gần hết tiền để thắng được nó đó.”

“Thắng được nó?”

“Cô bỏ tiền vào trong một cỗ máy, gạt cần, và một trong những cái búp bê hình nộm này rớt ra từ trong một quả bóng nhựa nhỏ.”

“Cái này là một loại đồ chơi à?”

“Ồ không, đó là một món đồ sưu tập vô cùng giá trị. Những cái hiếm có thể đổi được cả trăm đô la đấy.”

“Một trăm đô la cho cái này á?”

“Đúng vậy.” Shasta gật đầu lia lịa.

Rita cầm con hình nộm bé tí xíu dơ lên trước ánh đèn neon trắng trong phòng. Sau khi kiểm tra kĩ lưỡng, nó rõ ràng có hình một người lính mặc Chiến giáp. Chuyện nó được sơn màu đỏ và vung vẩy cái rìu chiến chỉ có thể nghĩa là đây chính là Chiến giáp của Rita. “Họ làm xịn thiệt. Cả bàn tay cũng trông y như thật này. Cái gì mà bí mật quân sự chứ.”

“Họ nhờ những nhà tạo mẫu chuyên nghiệp. Tất cả những gì họ cần là nhìn thoáng qua, xong họ sẽ làm ngay mặt hàng gần như y hệt nguyên bản. Những mẫu làm ở Nhật Bản là số một. Họ có thể bán đấu giá được cả mớ tiền đấy.”

“Thật là lãng phí tài nguyên chất xám.” Rita lật mẫu hình nộm trong tay. Dưới chân nó được khắc chìm dòng chữ MADE IN CHINA. “Trung quốc vẫn còn thời gian để làm đồ chơi à? Tôi nghe bảo họ còn không sản xuất kịp chip điều khiển Chiến giáp mà.”

“Họ có lực lượng lao động lớn mà. Có nhớ ông thượng nghị sĩ đã bị ép phải từ chức khi ông ta nói Trung Quốc có thể mất đi một lượng bằng cả dân số Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và vẫn còn dôi ra một tỉ người không? Chà, thực tế họ đã mất hàng triệu người ở phương nam, nhưng họ đến giờ vẫn đủ tài nguyên nhân lực để ném vào cái mớ này hòng chống lạm phát.”

“Thật khó mà tin được chúng ta đến từ cùng một hành tinh.”

“Nước Mỹ đang trong thời chiến, và chúng ta vẫn có đủ thời gian để xoay chuyển tình thế mà.”

Rita khó mà cãi lại được.

UDF tồn tại để bảo vệ cái thế giới bị ám ảnh bởi việc tạo ra những thứ vô dụng thế này đây, Rita nghĩ vậy. Thật là ngạc nhiên khi có người lại dồn tâm huyết vào cái thứ vô giá trị này. Mặc dù suy cho cùng đây cũng chưa hẳn đã là việc xấu. Không ai nhận thức được nó rõ hơn Rita, một người với kỹ năng duy nhất là chém giết.

“Tôi còn nhiều lắm.” Shasta lôi ra cả mớ búp bê từ trong túi.

“Cái gì đây? Loài nào đó trông giống lợn lai ếch từ những vùng bí hiểm sâu trong rừng rậm Amazon à?”

“Đó là Mimic.”

“Đấy, nhà tạo mẫu chuyên nghiệp của cô đấy.”

“Đây là thứ xuất hiện trong phim ảnh. Và nó cũng là hàng thật, chỉ cần dư luận quan tâm là được mà. Tin tôi đi, đây là thứ xuất hiện trong phim, đúng đến từng millimet.”

“Thế còn cái này thì sao?”

“Cô phải biết chứ. Đó là Rita Vrataski –– là cô!”

Con búp bê trông rất thon gọn, đầy đặn đến đáng kinh ngạc, và trên đầu là mái tóc quăn vàng óng. Khó mà tìm thấy một vật mô phỏng Rita mà khác cô đến thế này. Thực ra, Rita đã từng gặp cô diễn viên đóng vai cô trong phim một lần. Cũng không thể nói cô ta không hợp để đóng vai lính Chiến giáp, bởi bản thân Rita cũng có hợp đâu. Nhưng người phụ nữ họ chọn trông quá hào nhoáng để trở thành một người lính chiến đấu nơi tiền tuyến.

Rita so sánh búp bê của cô với con Mimic. Tự nhiên cô thấy con Mimic này trông cũng không đến mức quá khác con thật.

“Tôi giữ cái này được không?” Rita cầm bức tượng Full Metal Bitch trông chả có nét gì giống cô.

“Cái gì cơ?”

“Có thiếu một con cũng không sao, phải không?”

Phản ứng của Shasta đại khái là sự kết hợp của một con mèo đang ngủ thì bị đá khỏi cái ổ ưa thích của nó trên giường và một đứa bé năm tuổi bị bà dì lấy mất mẩu kẹo Chocolate nhân lạc cuối cùng để đi ăn mảnh. Cái vẻ mặt của cô sẽ khiến hồ sơ thi tại MIT tăng vùn vụt khi những sinh viên tương lai kia biết cô từng là học sinh tốt nghiệp đứng đầu trong lớp đấy.

Rita cân nhắc lại yêu cầu của mình. Những người như Shasta, đậu vào một trong những trường đại học siêu cấp với tỉ lệ chọi siêu khủng khiếp thường sẽ có xu hướng bùng nổ bất kỳ lúc nào nếu trêu ghẹo quá đáng. “Xin lỗi, chỉ đùa thôi. Tôi không nên trêu cô như vậy.”

“Không, tôi mới là người phải xin lỗi,” Shasta nói. “Chỉ là cái này đại khái là, chà, vô cùng hiếm. Ý tôi là, tôi đã mua hết mọi quả bóng trong cỗ máy, và đây là cái duy nhất xuất hiện.”

“Đừng lo. Tôi không bao giờ mơ tới chuyện lấy nó từ cô đâu.”

“Cảm ơn vì đã thông cảm. Tôi rất xin lỗi. Đây, sao cô không lấy cái này? Cái này cũng khá hiếm đấy.”

“Cái gì vậy?”

“Là người kỹ sư trong đội của Rita trong phim. Vậy nên về cơ bản thì là... tôi.” Một nụ cười gượng gạo nở trên môi Shasta.

Đây là hình mẫu tồi tệ nhất về một nữ kỹ sư mà Rita từng được thấy. Gầy như que củi, tàn nhang đầy mặt, góc cạnh trên khuôn mặt bị phóng đại thê thảm đến mức không thấy một chút vết cong. Nếu trên đời tồn tại một gã theo chủ nghĩa hoàn hảo không bao giờ vặn sai một con ốc hay cổ hủ đến độ chẳng bao giờ mạo hiểm đi hôn người khác giới, vậy đây chính là nó. Tất nhiên cô nàng kỹ sư của chúng ta mà con búp bê này lấy mẫu chắc chắn đã tự đâm đầu vào cửa ít nhất hai lần một ngày, vậy nên cái này chắc chắn là một sự bịp bợm trắng trợn.

Shasta nhìn Rita, nét lo lắng hằn sâu trong mắt. “Cô không thích nó sao?”

“Nó trông có điểm gì giống cô đâu.”

“Của cô cũng vậy mà.”

Họ nhìn nhau.

“Được rồi, cảm ơn. Tôi sẽ giữ nó. Để lấy may thôi.”

Shasta cầm một con hình nộm khác lên khi Ralph Murdoch, cổ treo lủng lẳng camera đi vào.

“Chào buổi sáng, các quý cô.”

Rita nhướn đôi lông mày đỏ rực màu sắt rỉ lên trước sự viếng thăm của vị khách không được chào đón này. Khuôn mặt cô đanh lại. Sự thay đổi đột ngột trong cách cư xử của Rita khiến Shasta giật mình, cô thì lúc này trông như đang phân vân không biết có nên trốn sau lưng gã nhà báo Hulk to vật vã này hay làm điều ngược lại. Sau vài giây gượng gạo và chần chờ, cô chọn việc núp sau lưng Rita.

“Anh tới đây bằng cách nào?” Rita không hề che dấu thái độ khinh miệt.

“Tôi là một thành viên trong đội ngũ cá nhân của cô. Ai dám cản tôi?”

“Anh là thành viên, và chúng ta đều biết điều đó. Giờ anh có thể đi.” Rita chẳng thèm quan tâm tới gã đàn ông này cùng đôi giày chạy bộ chưa-từng-dính-một-tí-bùn-trên-chiến-trường của hắn. Những người như hắn ta và Shasta có thể gặp gỡ và nói chuyện một cách thoải mái với người khác dù bản thân đang mang bất kỳ tâm trạng nào. Những lời của hắn không hề có một tia khiếp sợ khi biết mình sẽ tận mắt nhìn những người bạn của mình chết trong trận chiến tiếp theo. Chính nỗi khiếp sợ đó là thứ đã khiến Rita tự cô lập khỏi đồng đội, gia đình duy nhất cô còn lại. Cái gã thất bại này sẽ không bao giờ hiểu được cho tới cuối cuộc đời.

“Thế thì ngại quá, đã mất công tới tận đây,” Murdoch nói. “Tôi tình cờ thấy được một mẩu tin rất thú vị, và tôi muốn cho cô xem.”

“Cứ gửi nó tới tờ New York Times đi. Tôi sẽ rất vui lòng đọc nó.”

“Tin tôi đi, cô sẽ muốn nghe đấy.”

“Tôi thường thì không mấy hứng thú ở những chuyện anh thấy hứng thú.”

“Những tay lính Nhật Bản sẽ phải tập thể hình. Hình phạt của họ vì những rắc rối tối qua.”

“Tôi bảo anh đi đi. Trước trận chiến tâm trạng của tôi thường không tốt đâu.”

“Cô không muốn tới xem sao? Họ đang định luyện tập bài tập kiểu samurai đấy. Tôi sẽ rất vui khi Valkyrie đến xem toàn bộ quá trình.”

“Mẹ của anh hẳn đã rất thất vọng khi việc nạo phá thai chỉ phá được mỗi lương tâm của anh.” Rita nói.

“Một cô gái ngoan như cô mà lại nói vậy à.”

“Lần tới tôi cũng sẽ lại nói vậy thôi, nhưng giờ tôi không muốn bị làm phiền.”

“Cô nói gì cơ?”

“Tin tôi đi, tôi chưa nói gì đâu.”

Murdoch nhíu mày. “Được rồi, cứ coi cô vừa nói những lời rác rưởi và vô nghĩa đi. Hai trong một luôn.”

“Tôi đoán nó dễ hiểu mà.”

“Được rồi, vậy thì tôi không có lương tâm và tôi sẽ đi thẳng xuống Địa ngục. Lần trước cô cũng nói y như vậy khi tôi chụp mấy bức ảnh đứa bé vừa khóc vừa chạy trốn khỏi một đàn Mimic.”

“Anh còn không xứng ở Địa ngục. Anh chỉ có thể tìm cách chụp một bức ảnh của Satan và dùng nó để luồn lách chui qua cổng sau của thiên đàng.”

“Tôi sẽ coi đó là một lời khen.”

Một nụ cười nở ra trên đôi môi của Valkyrie. Nụ cười đó cũng y hệt như nụ cười xuất hiện trong những giờ phút đen tối trên chiến trường, chỉ có điều nó nấp sau chiếc mũ bảo hiểm. Cơ thể của Shasta căng lên. Murdoch trong vô thức bước một bước lùi lại.

“Chà,” Full Metal Bitch nói, “Tôi sắp bước chân xuống Địa phục. Và cho tới lúc đó, tôi không muốn thấy mặt anh một lần nào nữa.”


9[]

Cuối cùng Rita vẫn đi xem buổi tập thể hình. Còn Shasta thì không. Người duy nhất đứng gần Rita là gã Murdoch chết tiệt đó. Những người còn lại trong đội duy trì một khoảng cách tượng trưng cho lòng kính trọng.

Đó là khi đôi mắt Rita chạm phải ánh mắt đầy thách thức kia từ sân tập, ánh mắt mang sức nặng của cả thế giới. Ở thằng nhóc kia có gì đó khiến Rita cảm thấy thích thú. Cô bước lại gần anh ta.

Cô cố ý bước đi, mỗi bước đều là một bước di chuyển hoàn mỹ được thiết kế để đẩy một chiếc Chiến giáp băng qua chiến trường với toàn bộ hiệu suất. Cô là chuyên gia càn quét chiến trường mà không hề tốn chút nỗ lực nào và cũng chẳng để lại một tiếng động. Để đạt được 100% hiệu suất của Chiến giáp, một người lính phải đi bộ trong một căn phòng đầy những quả trứng mà không làm vỡ một quả nào. Có nghĩa là phải có năng lực phân phối hoàn hảo sức nặng cơ thể lên mỗi bước chân.

Người lính kia vẫn nhìn chằm chằm vào Rita. Cô bước lại ngay chỗ anh ta, rồi quay ngoắt chín mươi độ về phía cái lều nơi vị lữ đoàn trưởng cấp tướng đang ngồi. Cô trao cho ông ta một cử chỉ hành lễ phổ thông.

Lữ đoàn trưởng nhìn Rita bằng ánh mắt đầy nghi hoặc. Rita là một thượng sĩ nếu xét về quân hàm, nhưng cô cũng là lính Mỹ, thế nên mối quan hệ thực sự giữa họ trong cấp bậc quân đội có hơi chút rối loạn.

Rita nhớ mặt người đàn ông này. Ông ta là người đi chung với vị tướng đã trực tiếp tới bắt tay Rita tại màn dạo đầu của buổi tiếp đón thừa thãi nhằm chào đón Lực lượng Đặc nhiệm. Có kha khá sĩ quan được thăng quân hàm mà chưa từng chiến đấu trên tiền tuyến, nhưng người này có vẻ như có tình yêu đặc biệt với trò khoe mẽ và gây hấn.

Họ nói chuyện ngắn gọn, tướng quân có vẻ khá ngạc nhiên và thái độ cùng ngôn ngữ cơ thể của Rita khá là chuẩn. Rồi Rita trở lại sân tập, đi ngang qua những chàng trai trông như đang cúi mình trước cô. Cô chọn chỗ bên cạnh người lính đã nhìn chằm chằm vào mình và bắt đầu bài tập chống đẩy tổng hợp. Cô có thể cảm thấy hơi ấm từ cơ thể anh ta lan tỏa trong bầu không khí có phần se se lạnh giữa họ.

Người lính đó không cử động. Rita không cử động. Mặt trời treo cao trên bầu trời, chậm rãi thiêu đốt làn da của họ. Rita thấp giọng nói chỉ vừa đủ để tay lính bên cạnh cô nghe thấy:

“Trên mặt tôi có gì à?”

“Tôi không thấy gì cả.”

Ngoại trừ âm điệu có hơi kỳ quái, giọng Burst của người lính rất rõ ràng và dễ hiểu. Không giống như ở Bắc Phi. Những người từ thuộc địa của Pháp trước đây không thể nói tiếng Burst để cứu mạng chính họ.

English Burst, hay ngắn gọn là Burst, là một thứ ngôn ngữ được tạo ra để giải quyết vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong một quân đội gồm những người lính đến từ cả tá quốc gia. Hệ thống từ vựng đã được giản lược và có càng ít quy tắc ngữ pháp càng tốt. Khi họ phác thảo ngôn ngữ, họ đã thận trọng không thêm vào những từ ngữ tục tĩu vào trong hệ thống từ vực chính thức, nhưng rút cục thì bạn cũng chẳng thể nào ngăn được mấy gã kia thôi dùng từ “fuck” dưới dạng danh từ, động từ, tính từ và gắn với mọi từ khác.

“Anh nhìn chằm chằm vào tôi từ đấy đến giờ.”

“Tôi đoán là vậy,” anh ta nói.

“Anh muốn nói gì với tôi à?”

“Tôi không muốn nói chuyện trong lúc này.”

“Thằng đầu tôm Kiriya! Mày đang trượt tay kìa!” trung úy hét lên. Rita, khoác cái vẻ mặt hờ hững của người chưa từng có nhu cầu giao tiếp với nhân loại trong suốt cả cuộc đời, tiếp tục bài tập chống đẩy tổng hợp.

Chống đẩy tổng hợp khó hơn vẻ bề ngoài của nó nhiều. Từng giọt mồ hôi đọng lại nơi chân tóc, chảy dọc xuống thái dương, chui vào trong mắt –– khiến chúng rát lên trước muối mặn –– và trôi xuống cổ bạn trước khi rơi vào trong ngực. Cam chịu trước cơn khó chịu đó chạy khắp cơ thể cũng giống như một người lính phải chịu đựng cảnh tù túng bên trong chiếc chiến giáp. Bài tập samurai này cũng không phải hoàn toàn là vô dụng, Rita nhận định.

Khi mọi chuyện trở nên quá khó khăn, tốt nhất là thả lỏng tâm trí. Rita để tâm tư của mình thoát ra khỏi từng cơn gào thét kháng nghị của cơ thể và đi ra xung quanh. Lữ đoàn trưởng cấp tướng từ Ban Chỉ huy trông bối rối trước kẻ xâm nhập không mời. Với hắn ta, một gã chưa từng trải qua một khoảnh khắc xung đột vũ trang thực thụ nào, có lẽ sân tập này, với làn gió biển dịu dàng này là một phần của chiến tranh. Với những người chưa từng hít thở trong bầu không khí trộn lẫn mùi máu, bụi và kim loại cháy tràn ngập khắp chiến trường, bài huấn luyện này là chiến tranh, leo vài bậc thang trong sự nghiệp cũng là chiến tranh. Chỉ có một người bị chiến tranh lấy mất cái ngày yên bình trước trận chiến ấy: một người phụ nữ tên Rita Vrataski cùng những vòng lặp thời gian của cô.


* * *


Rita từng mơ rằng một ngày nào đó cô sẽ gặp một người khác cũng trải qua những vòng lặp. Cô thậm chí còn nghĩ ra cụm từ họ có thể dùng để phân biệt nhau với người khác. Một cụm từ chỉ có Rita biết. Một cụm từ chỉ có hai người họ chia sẻ cho nhau.

Một người khác bị dính vào trong một vòng lặp thời gian, vậy có nghĩa là có người khác ngoài Rita đã vô tình giết con Mimic server. Cũng như Rita bị ép phải bỏ mặc những người không ở trong vòng lặp. Anh ta hẳn cũng rất cô đơn.

Có lẽ cô không thể du hành thời gian trong cùng một vòng lặp với anh ta –– mặc dù thực ra cô cũng có thể, và cái suy nghĩ đó khiến cô sợ hãi –– nhưng cô có thể cho anh ta những lời khuyên. Chia sẻ nỗi cô đơn của anh ta. Kể cho anh ta cách phá vỡ vòng lặp, kiến thức mà Rita mất 211 lần tử vọng mới ngộ ra. Anh ta có lẽ vẫn đang chiến đấu trong bối rối, cũng như Rita trước đây. Anh ta có lẽ sẽ trở thành một chiến binh vĩ đại.

Sâu trong trái tim Rita, cô biết chắc sẽ không ai tới nói cho cô những lời chỉ mình cô biết.

Tín hiệu Tachyon của Mimic là đỉnh cao trong công nghệ của người ngoài hành tinh, thứ công nghệ cho phép họ xâm chiếm khoảng không bao la. Việc Rita bị kẹt trong vòng lặp thời gian trong cuộc chiến giành lại Florida đã là một vận may bất ngờ của nhân loại rồi. Nếu cái vận may đó không xảy ra, trái đất đã bị biến thành một hành tinh khác từ lâu rồi. Không chỉ loài người mà gần như mọi loài sinh vật trên hành tinh đều đã bị tuyệt chủng rồi.

Danh tiếng của Rita lên cao vùn vụt sau mỗi trận đấu, và nỗi cô đơn của cô cũng vậy. Cô đã phá vỡ được vòng lặp, nhưng cô cảm thấy cứ như mỗi ngày cô sống vẫn đang lặp lại vậy. Hy vọng của cô là khi chiến thắng của loài người tới, cái ngày mọi con Mimic đều bị quét sạch khỏi địa cầu, cũng sẽ là ngày cái cảm giác bị cô lập đáng sợ này rời bỏ cô. Cho tới lúc đó, cô vẫn sẽ tiếp tục đóng cái vai trò độc nhất vô nhị của mình trong cuộc giao tranh này.

Rita không quan tâm tới những trận chiến. Trong chiến đấu cô không cần dùng tới bộ não. Khi cô leo lên chiếc Chiến giáp đỏ rực, nỗi buồn, niềm vui, những ký ức ám ảnh cô hơn hết thảy –– tất cả đều bị quét sạch. Chiến trường ấy, cái nơi tràn ngập khói và thuốc súng ấy, là nhà của Rita.


* * *


Buổi tập thể hình kết thúc sớm hơn một tiếng. Tướng quân vội vàng quay trở về doanh trại.

Khi Rita đứng dậy, người đàn ông bên cạnh cô loạng choạng bước đi. Anh ta có chiều cao cũng không quá nổi bật khi là lính Chiến giáp. Anh ta còn trẻ nhưng lại mang cái vẻ mệt mỏi cứ như thể anh ta sinh ra cùng với nó. Quần áo anh ta trông cứ như vừa bước ra từ nhà máy, vậy nên diện mạo của anh ta có gì đó khiến người ta khó chịu. Đôi môi anh ta vẽ nên một nụ cười Mona Lisa, nụ cười rất thành công che đậy tuổi của anh ta.

Con số 157 viết bằng số Ả rập được ghi trên mu bàn tay. Rita không biết nó có nghĩa là gì, nhưng chuyện đó khá là kỳ lạ. Đủ kỳ lạ để Rita nghĩ cô sẽ khó mà quên được trong một thời gian dài. Cô đã từng nghe kể có những người lính xăm nhóm máu của họ tại dưới lòng bàn chân vào ngày trước khi những chiếc Chiến giáp được lưu hành, nhưng cô chưa từng nghe về chuyện có người ghi chú bằng bút máy lên mu bàn tay.

“Vậy anh muốn nói chuyện à. Đó là gì?”

“À, đúng rồi,” anh ta nói.

“Hử? Cứ nói đi, chàng lính. Tôi là một cô gái kiên nhẫn, nhưng ngày mai có một trận chiến, và tôi có nhiều việc phải làm.”

“Tôi, ừm, có một câu trả lời cho câu hỏi của cô.” Chàng trai do dự cứ như một cậu chàng học sinh cấp ba đang đóng kịch bị bắt đọc một đoạn kịch bản rất chi là không hay. “Những nhà hàng ở Nhật Bản không thu tiền trà xanh.”

Rita Vrataski, vị cứu tinh của nhân loại, chiến thần Valkyrie, cô gái mười chín tuổi, lột trần lớp mặt nạ của mình.

Full Metal Bitch bật khóc.


Chapter 4: Killer Cage[]

1[]

“Chết tiệt, bắt đầu rồi! Cố gắng đừng để hai hòn bi tan tành xác pháo đấy mấy chú!”

Trận chiến 159

Tôi lao tới phía trước, rada Doppler vặn lên mức tối đa.

Tôi nhắm một mục tiêu, bắn, cúi xuống. Một mũi giáo xé gió lướt trên đỉnh đầu tôi.

“Ai ở ngoài đó thế? Cậu tiến quá xa! Muốn tự sát à?”

Trung úy lần nào cũng nói y hệt vậy. Tôi vuốt cát bám trên mũ bảo hộ đi. Những tia sét nổ ra từ những vỏ đạn xẹt ngang dọc khắp bầu trời. Tôi liếc nhìn Ferrell và gật đầu.

Lần này trận chiến sẽ kết thúc. Nếu tôi đứng đây và nhìn Yonabaru cùng Ferrell chết thì họ sẽ không quay trở lại. Tất cả phụ thuộc vào lần này. Trận chiến này sẽ không còn lặp lại nữa. Nỗi sợ hãi đang cào xé trong ruột tôi không phải nỗi sợ hãi trước cái chết, đó là nỗi sợ trước một ẩn số. Tôi muốn ném khẩu súng trường cùng chiếc rìu xuống và tìm lấy một chiếc giường để trốn dưới gầm.

Chỉ là một phản xạ hết sức bình thường thôi –– thế giới vốn có bao giờ tự lặp lại đâu. Cơn cồn cào trong ruột chẳng thể cản tôi cười toe toét. Bây giờ tôi đã được tận hưởng nỗi sợ hãi mà mọi người đều phải chịu đựng. Tôi đang đặt mạng sống –– thứ tôi chỉ có một –– lên bàn cược.

* * *


“Thực ra anh không bị kẹt trong vòng lặp thời gian,” Rita đã giải thích với tôi. Những kinh nghiệm trong 158 trận đấu trước đây đều là thật; chỉ có tôi là người không thực sự tồn tại. Dù cho ai là người đã ở đó, quằn quại trong đau đớn, tuyệt vọng và bãi nước tiểu nóng cháy trong Chiến giáp thì giờ hắn cũng không còn nữa, lúc này hắn chỉ còn là một mảnh kí ức.

Rita bảo tôi rằng dưới góc nhìn của người nắm giữ kí ức, không có gì khác biệt giữa có những kinh nghiệm thực sự và chỉ có ký ức về nó. Với tôi mấy thứ đó chỉ là một mớ triết học nhảm nhí. Dù sao Rita cũng có hiểu tường tận đâu.

Tôi nhớ về cuốn truyện tranh tôi từng đọc, từ cái hồi tôi vẫn còn đọc truyện tranh, kể về một chàng trai sử dụng cỗ máy thời gian để thay đổi quá khứ. Có vẻ như nếu quá khứ thay đổi, cái gã từ tương lai mà quay ngược thời gian để thay đổi nó sẽ phải biến mất –– như gã trong mấy tập phim Back to the Future cũ rích ấy –– nhưng cuốn truyện chẳng đi sâu vào mấy chi tiết đấy.

Tôi đã vô tình trở thành một gã nhìn trộm vào giấc mơ của lũ Mimic đó. Ngay từ trận chiến đầu tiên, cái lần Rita cứu mạng tôi, tôi đã không hề hay biết mà giết một con Mimic mà cô ấy gọi là “server”. Trong mỗi trận chiến kể từ lúc đó, từ trận số hai tới trận số 158, Rita đều đã giết con server. Nhưng hệ thống liên hệ giữa tôi và server đã được thiết lập ngay trong khoảnh khắc tôi giết nó, nghĩa là tôi là người bị kẹt trong vòng lặp mà Rita đã thoát ra được.

Những con Mimic nọ sử dụng vòng lặp để thay đổi tương lai thành ra có lợi cho chúng. Mũi giáo tưởng như bắn trượt Yonabaru trong trận chiến thứ hai thực ra vốn dành cho tôi. Cái lần tình cờ đụng độ Mimic khi tôi chạy khỏi căn cứ vốn chả tình cờ chút nào. Chúng đã theo đuôi tôi. Nếu không phải vì Rita, chúng đã làm thịt tôi để ăn sáng, ăn trưa, ăn tối rồi.

* * *


Trận chiến tiếp tục. Sự hỗn loạn càn quét khắp chiến trường.

Tôi chui vào trong một hố bom cùng toàn đội để tránh bị thông bởi một mũi giáo từ một con xạ thủ bắn tới. Cả đội đã di chuyển cả trăm mét tới gần bờ biển từ khi trận chiến bắt đầu. Cái lỗ mà chúng tôi đang núp có được là nhờ công ơn cao cả của mấy quả bom định vị GPS trong đêm trước đó. Gió xoáy cuồn cuộn cuốn quanh chân tôi, thổi tung cát bụi lên không.

“Y như hồi ở Okinawa,” Ferrell bình luận, tấm lưng anh ta tựa vào bức tường làm từ đất.

Yonabaru lại nhả thêm một loạt đạn khác. “Cuộc chiến lần đó hẳn phải y như địa ngục trần gian.”

“Bọn tao bị bao vây, y như bây giờ. Đạn thì hết và mọi chuyện càng lúc càng tồi tệ.”

“Anh đang kể chuyện xúi quẩy đấy.”

“Tao không biết nữa ­­––“ Ferrell bật dậy từ đằng sau hố bom, rỉa đạn, rồi lại rút về sau bức tường. “Tao có cảm tưởng trận chiến này sẽ có chuyện gì đó. Chỉ là cảm tưởng thôi.”

“Chết tiệt, Trung sĩ đang nói chuyện sến này. Tốt nhất cẩn thận không bị sét đánh mất.”

“Nếu chú mày có gì nghi vấn, cứ nhìn tay lính mới của chúng ta hành động đi,” Ferrell nói. “Nó mà có đột nhiên bật dậy rồi nhảy điệu jitterbug chỉ để trêu tức tụi Mimic thì anh cũng không ngạc nhiên đâu.”

“Em có biết điệu jitterbug là điệu gì đâu,” Tôi nói.

“Nói nhảm ít thôi.”

“Có lẽ sau này anh sẽ thử xài cái rìu chiến đáng yêu của chú mày một lần cho biết.” Yonabaru gật đầu trước cục Volfram các bua trong nắm tay tôi.

“Anh sẽ khiến mình bị thương đấy.”

“Phân biệt đối xử đúng là phân biệt đối xử mà.”

Cứ đều đều như vậy. Từng người một nói chuyện với nhau, chẳng ai thèm lắng nghe ai cả.

“Có một đám ở hướng hai giờ!”

“Khách hàng thứ ba mươi lăm của chúng ta trong ngày hôm nay đây!”

“Thằng chó nào gửi cho tao cái tệp tin nặng tổ bố thế này hả? Chúng ta đang ở giữa trận chiến đấy, đưa cho bố mày làm gì!”

“Trời ạ, tao cần hút thuốc.”

“Câm mồm lại và bắn đi!”

Những chiến binh nơi tiền tuyến lao ra ngoài lớp màng che chắn, nâng cao súng lên hướng về phía lũ nhúc nhúc đang ùn ùn kéo tới. Đạn xé gió bay đi, nhưng cuộc tiến công của Mimic vẫn không hề ngơi nghỉ. Tôi siết chặt cán rìu.

Không hề có một cảnh báo, một quả bom rơi từ trên trời xuống. Quả bom định vị laser chính xác tuyệt đối phá tan nền đất, đào sâu xuống lòng đất trước khi nổ tung. Bè lũ Mimic đổ nhào xuống hố.

Một chiếc Chiến giáp đỏ rực xuất hiện giữa cơn mưa của đất và bùn. Cục Volfram Cacbua xẻ ngang xẻ dọc trước những cái chân bạch tuộc vung vẩy và những cái thân dày trông như con ếch. Sau vài phút, số lượng vật thể còn di chuyển được chỉ còn là con số không. Không còn sót lại một con quái vật ngoài hành tinh nào.

Xung điện tràn vào tai tôi, rồi giọng nói của cô ấy vang lên. “Xin lỗi vì đã bắt anh chờ.” Full Metal Bitch đứng dậy, nhấc chiếc rìu chiến khổng lồ lên, đứng giữa tiểu đội chỉ toàn một màu cát là chúng tôi. Bộ giáp làm bằng thép súng đỏ rực ấy sáng long lanh dưới ánh mặt trời.

Tôi vươn tay ra để cô ấy có thể kéo tôi ra khỏi đám đông. “Bọn tôi cũng chỉ vừa mới tới thôi.”

“Full Metal Bitch làm cái quái gì ở đây thế?” Yonabaru quên béng cả chuyện gỡ tấm màn che chắn ra và ngây ngốc nhìn Chiến giáp của cô ấy. Hắn ta mà đem cái mặt đó đi đóng phim hài thì phải kiếm bộn tiền.

Rita nhìn về phía Ferrell. “Tôi cần nói chuyện với người chịu trách nhiệm cho tiểu đội này. Kết nối với tôi.”

Ferrell mở kênh liên lạc giữa Rita và trung úy. “Xin chào.”

“Đây là Rita Vrataski. Tôi có một yêu cầu trước sĩ quan phụ trách Tiểu đội #3 của Đại đội #17, Tiểu đoàn #3, Trung đoàn #12, Đơn vị Bộ binh Vũ trang #301. Tôi cần mượn Keiji Kiriya. Anh thấy có được không?”

Cô ấy không thông báo quân hàm hay chức vụ. Trong nền văn hóa quân sự nơi sĩ quan cấp cao của bạn nói 1+1=3 thì 1+1 quả thực bằng 3, chỉ có Valkyrie có quyền hành động nằm ngoài hệ thống cấp bậc. Kể cả trong trận chiến đầu tiên, người đỡ lấy đầu tôi khi tôi đang nằm chết dần cũng không phải là Full Metal Bitch. Đó là Rita Vrataski.

Trung úy đáp lại với giọng đầy hoài nghi. “Kiriya á? Có lẽ cô sẽ cần người với nhiều kinh nghiệm hơn, người ––“

“Chấp thuận hay không?”

“Chà, uhm, có.”

“Tôi rất cảm kích trước sự giúp đỡ của anh. Trung sĩ, còn anh thì sao? Tôi mượn Kiriya được chứ?”

Ferrell nhún vai đồng ý, đôi vai Chiến giáp ấy nâng lên như cơn sóng từ đại dương.

“Cảm ơn, Trung sĩ.”

“Cẩn thận đừng để nó nhảy jitterbug gần đội của chúng tôi.”

“Jitterbug? Mật mã à?” Rita hỏi.

“Chỉ là một kiểu nói chuyện thôi mà.”

“Keiji, thế này là sao?”

“Xin lỗi, Trung sĩ. Em sẽ giải thích sau,” Tôi nói.

“Chúng ta sẽ tấn công chúng từ hướng mười hai giờ.”

“Uh, được.”

“Này, Keiji! Nếu chú mày thấy cái máy bán hàng tự động nào, nhớ mua hộ anh gói thuốc!” Yonabaru gọi ngay trước khi tôi ngắt kết nối khỏi đường dây liên lạc.

Rita cười khúc khích trước trò hề của Nijou. “Anh có một đội tốt đấy. Sẵn sàng chưa?”

“Nhẹ nhàng thôi đấy.”

“Tôi lúc nào mà chả nhẹ nhàng.”

“Thế mà tôi nghe đồn là không phải vậy đâu nha.”

“Tập trung vào lũ Mimic đi.”

Dậm chân lên thành hố bom, điên cuồng quờ quạng, và cuối cùng từng con, từng con một, lũ Mimic bắt đầu leo ra khỏi cái hố mà Rita đào xuống trên mặt đất. Chúng tôi cắm mặt lao tới đàn Mimic. Khắp mặt đất phủ kín những con ếch sưng phồng.

Chạy. Bắn. Rút. Thay đạn. Chạy tiếp. Bắn. Hít thở.

Những quả bom chính xác lao xuống tìm lũ Mimic đang lẩn trốn. Khói cuồn cuộn bốc lên nơi chúng tìm thấy con mồi. Cát và bụi theo cùng khói lơ lửng trên không, và đàn Mimic không còn xa nữa. Chúng tôi lao tới hố bom và lấy ra mọi thứ mà quả bom để lại. Lôi chúng ra, đánh chết chúng.

Kể cả khi bạn chỉ lặp lại một ngày hết lần này qua lần khác, cuộc sống trên chiến trường cũng chỉ là việc thường ngày không hơn. Nếu góc chém của bạn bị sai quá nhiều, nó sẽ gây ra một chuỗi hệ quả dẫn tới sự thay đổi hoàn toàn kết cục trận đấu. Một con Mimic bạn để thoát trong một phút có thể sẽ là hung thần tàn sát đồng đội của bạn. Mỗi một người lính hy sinh, chiến tuyến lại càng trở nên mỏng manh, và rồi cuối cùng sụp đổ trước áp lực của quân thù. Tất cả bởi vì bạn đã vung chiếc rìu ở góc bốn mươi bảy độ thay vì bốn mươi tám độ.

Lũ Mimic nhiều tới mức tôi chẳng đếm xuể. Những chấm sáng phủ kín màn hình rada Doppler. Có một luật bất thành văn là cần một đội mười Chiến giáp để hạ gục một con Mimic. Kể cả vậy, để trận chiến trở nên công bằng đội đó phải tách nhau ra để nhả đạn vào người chúng cho tới khi chả còn viên đạn nào.

Rita hành động như đã được lập trình. Cô vung vẩy chiếc rìu nhẹ nhàng như đứa trẻ vung thanh kiếm đồ chơi. Không khí ngập tràn những mảnh vỡ của Mimic. Thêm một bước nữa, chém thêm một nhát nữa, lại một cái chân bạch tuộc nữa ra đi. Giặt, giũ, lặp lại.

Đây là lần đầu tiên tôi thấy cảnh này. Những mũi giáo mang theo cái chết lướt trong không trung. Tôi đứng gần tới mức có thể vươn tay ra chạm lấy cả nửa tá Mimic. Mặc dù nguy hiểm rình rập khắp nơi quanh mình, tôi vẫn cảm thấy trấn tĩnh một cách kỳ lạ. Có người đang bảo vệ sau lưng tôi. Rita là một chiếc máy lọc có thể chưng cất và trung hòa nỗi sợ. Tôi đang ở giữa một thung lũng ngập tràn bóng ma tử thần, chẳng có cách nói nào chính xác hơn đâu, nhưng tôi có Rita bên mình.

Tôi học cách sống sót bằng cách bắt chước những kĩ năng của Rita với chiếc rìu, và trong quá trình đó, tôi đã biết được hết mọi bước di chuyển của cô ấy –– cô ấy sẽ bước chân trái hay chân phải tới, cô ấy sẽ bắn con Mimic nào khi bị bao vây. Tôi biết khi nào cô ấy sẽ vung rìu, và khi nào cô ấy sẽ chạy. Tất cả chỗ đó, và còn hơn thế nữa, đều được khắc ghi ngay trong hệ điều hành của tôi.

Rita bỏ lại nguy hiểm sang một bên và lao tới đơn vị của kẻ thù, vạch ra một hành lang hủy diệt. Thứ duy nhất cô để lại sau lưng là những đối tượng cô chẳng thèm giết. Tôi chỉ đơn giản là quá thoải mái khi được đứng sau dọn dẹp chỗ còn lại hộ cô ấy. Chúng tôi chưa từng luyện tập cùng nhau, nhưng chúng tôi di chuyển như một cặp sinh đôi, những cựu binh đã trải qua vô vàn trận chiến bên nhau.

Bốn con Mimic lao tới chỗ Rita cùng một lúc –– không phải chuyện đơn giản, kể cả với Valkyrie. Cô ấy vẫn đang mất thăng bằng sau cú chém cuối cùng. Bằng tay không, tôi thúc nhẹ cô ấy bằng khuỷu tay. Cô có giật mình trong tích tắc, nhưng cô cũng chẳng mất quá nhiều thời gian để hiểu được việc tôi làm.

Cô ấy quả thực là một bậc thầy. Trong chưa đầy năm phút, cô ấy đã học được cách phối hợp cùng với tôi. Khi cô ấy nhận ra tôi có thể dùng một tay hay một chân đang rảnh để loại bỏ dư chấn sau một đòn đánh, cô quay đầu và đối mặt với kẻ thù, không chút ý định né tránh. Một cái chân trước của Mimic chém tới trước mặt cô ấy trong khoảng cách một cánh tay và cô còn chẳng thèm do dự.

Chúng tôi hai mà như một. Tôi và cô ấy càn quét kẻ thù bằng một thứ sức mạnh đáng sợ, luôn để Chiến giáp của đối phương trong tầm mắt. Chúng tôi không cần ngôn ngữ hay cử chỉ. Mỗi bước di chuyển, mỗi bước chân đều đã nói hết những gì cần nói.

Kẻ thù của chúng tôi có thể đã tiến hóa và có khả năng quay ngược thời gian, nhưng nhân loại cũng đã phát triển vài mẹo vặt của riêng nó. Có những người có thể giữ cho Chiến giáp trong điều kiện tối ưu nhất, những người có thể ảnh hưởng tới chiến thuật và bọc lót cho hậu cần, những người có thể hỗ trợ cho tiền tuyến, và hơn hết, những người được sinh ra để trở thành kẻ giết người. Những người có thể khiến bản thân thích nghi với môi trường và những kinh nghiệm của bản thân trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Một kẻ thù có thể nhìn trước tương lai và biết trước được hiểm nguy lại trở thành nạn nhân trước chính sự tiến hóa của nó. Chúng tôi học hỏi nhanh hơn chúng.

Tôi đã trải qua cái chết tận 158 lần, đạt tới trình độ mà không một loài sinh vật nào khác trên hành tinh này có thể đạt tới. Rita Vrataski lại còn ở một cấp độ cao hơn. Chúng tôi lao về phía trước, bỏ lại tất cả những người còn lại, hai chúng tôi là cả một đội quân. Những chiếc Chiến giáp của chúng tôi vạch nên một đường xoắn ốc đầy thanh nhã theo chiều kim đồng hồ dọc trên đoạn đường chúng tôi đi –– một thói quen tôi bắt chước từ Rita. Sau gót chân tôi, tất cả những gì còn lại chỉ là từng núi xác chết.

Bốn mươi hai phút từ khi trận chiến bắt đầu, chúng tôi đã tìm thấy nó. Con Mimic là cái căn nguyên của toàn bộ chỗ vòng lặp chết tiệt nọ. Sợi dây định mệnh kết nối chúng tôi. Nếu không phải vì con server này, tôi sẽ không bao giờ phải chịu cảnh chết chìm trong máu của chính mình, nhìn ruột gan rơi hết ra trên nền đất hàng tá lần, lang thang vô vọng giữa cái Địa ngục không có lối thoát này. Nếu không phải vì con server này, tôi đã không thể gặp Rita Vrataski.

“Là nó đấy, Keiji. Anh phải là người hạ gục nó.”

“Thế thì còn gì bằng.” “Nhớ lấy: đầu tiên là ăng ten, sau đó là lũ backup, rồi con server.” “Và rồi chúng ta sẽ về nhà?” “Cũng không hẳn. Khi vòng lặp kết thúc, trận chiến thực sự sẽ bắt đầu. Mọi chuyện chỉ kết thúc khi chẳng còn con Mimic nào cử động.” “Quả nhiên chả có gì là đơn giản cả.”

* * *


Tận diệt là cách duy nhất để chiến thắng trong trận chiến này. Bạn không thể tuyên bố chiến thắng khi chỉ mới tiêu diệt được 70 phần trăm lực lượng của chúng. Bạn phải tiêu diệt hết thảy. Hạ gục con server, và trận chiến sẽ tiếp tục. Tất cả những gì tôi và Rita có thể làm là giải phóng đồng đội của chúng tôi khỏi cảnh sa lầy trong những vòng lặp thời gian ấy. Một chiến thắng lâu dài cần nhiều hơn hai người lính. Nhưng vào cái ngày chúng tôi chiến thắng, tôi có thể chết, Rita có thể chết, Yonabaru, Ferrell và những người còn lại trong tiểu đội đều có thể chết, kể cả mấy con chó trong đội #4 cũng có thể chết, và thời gian sẽ không bao giờ lặp lại. Một ngày mới sẽ bắt đầu trên Trái đất.

Rita nói hạ gục Mimic server đơn giản y hệt mở lon đồ hộp vậy. Tất cả những gì bạn cần là cái mở đồ hộp thích hợp. Buồn thay, cho tới nay cô ấy là người duy nhất trên hành tinh có cái mở đồ hộp ấy.

Loài người trên Trái đất, hãy ăn mừng đi! Keiji Kiriya đã tìm ra một cái mở đồ hộp khác! Đừng chần chừ nữa, từ giờ mỗi khi bạn mua cái mở đồ hộp thương hiệu Rita Vrataski, bạn sẽ nhận được thêm một cái mở đồ hộp hiệu Kiriya mà KHÔNG PHẢI TRẢ THÊM MỘT ĐỒNG NÀO!

Tất nhiên, bạn có muốn cũng không thể mua riêng một trong hai chúng tôi. Tôi nghĩ Rita và tôi không phải là người bán hàng trung thực gì cho cam. Khi hai người cùng phải chịu thứ vòng lặp điên rồ và tàn ác này đã gặp được nhau, đừng để ai chia cắt họ. Chỉ có Rita và tôi hiểu rõ nỗi cô đơn của nhau, và chúng tôi sẽ đứng bên nhau, thái lũ Mimic thành thịt viên cho tới khi nỗi cay đắng này kết thúc.

* * *


“Phá xong ăng ten!”

“Lại chỗ lũ backup đi.”

“Rõ.”

Tôi giơ cao chiếc rìu chiến lên và chém xuống, một nhát thật ngọt ––

* * *


Tôi mở mắt ra. Tôi đang nằm trên giường.

Tôi lấy một cây bút và viết “160” trên mu bàn tay. Rồi tôi đá thật mạnh, mạnh hết mức có thể lên bức tường.


2[]

Không hề đơn giản để kể cho một người về chuyện mà bạn biết chuyện đó sẽ khiến người kia khóc. Và nếu Jin Yonabaru là người đó, vậy có nghĩa là bạn đang ngồi trên cái xuồng cao su bị thủng đáy giữa dòng nước lũ.

Lần trước hình như hơi gượng gạo quá. Tôi đã cố tìm cách tốt hơn để nói ra, nhưng tôi không tài nào nghĩ ra cách nào ngắn gọn và tử tế hơn để nói cho Rita biết rằng tôi cũng bị kẹt trong vòng lặp. Có lẽ tôi nói toạc ra có khi lại hay hơn. Chết tiệt, chẳng có ý tưởng nào hay ho cả.

Tôi không phải là người đặc biệt thông minh, và cái bộ não tí hon của tôi vẫn đang choán đầy cái suy nghĩ tại sao tôi vẫn không phá vỡ được vòng lặp dù mọi chuyện vẫn diễn ra theo kế hoạch. Tôi đã làm tất cả mọi thứ đúng theo những gì Rita bảo, nhưng giờ tôi vẫn ở đây, cái ngày trước khi bắt đầu trận chiến thứ 160.

Bầu trời trên sân huấn luyện số 1 vẫn trong xanh y như 160 lần trước đó. Mặt trời buổi 10h sáng thiêu đốt chúng tôi không chút khoan nhượng. Buổi tập thể hình vừa kết thúc, và những cái bóng đọng dưới chân chúng tôi nay được tô điểm thêm bằng từng giọt mồ hôi.

Tôi là một người hoàn toàn xa lạ với người con gái với mái tóc màu sắt rỉ cùng làn da quá nhợt nhạt với một người lính. Đôi mắt nai màu nâu kia chĩa vào tôi.

“Vậy anh muốn nói chuyện à. Có chuyện gì?”

Tôi đã hết thời gian suy nghĩ rồi, và trong đầu thì có ý tưởng nào hay ho đâu. Đáng ra tôi nên kéo cô ấy ra một chỗ riêng tư để nói chuyện trước buổi thể hình. Giờ thì quá muộn rồi.

Tôi nhìn Rita và nói mấy thứ lảm nhảm về trà xanh y hệt trước đó. Này, lần này có vẻ không tệ như lần trướng, tôi nghĩ. Có lẽ cô ấy sẽ không –– oh, fuck.

Nước mắt chảy thành dòng trên đôi má, nhỏ lách tách từng giọt dưới đáy cằm rồi vỡ tung ra khi rớt xuống lòng bàn tay mà tôi đưa ra để đón lấy chúng. Tôi vẫn còn nóng bừng bừng sau buổi tập, nhưng những giọt nước mắt ấy bỏng cháy như những viên đạn 20mm. Tim tôi đập thình thịch. Tôi cứ như một chàng học sinh cấp ba đang mời một cô bạn gái cùng nhảy. Kể cả trong trận chiến huyết áp của tôi cũng không lên cao tới mức này.

Rita túm lấy chân áo của tôi, siết chặt tới mức từng đầu ngón tay trắng bệch ra. Trên chiến trường tôi có thể thấy trước mọi bước di chuyển trước cả khi cô ấy có hành động gì, nhưng tại đây tôi hoàn toàn không chút manh mối. Tôi đã tự lập trình bản thân hòng tránh né cả ngàn đòn tấn công từ phía Mimic nhẹ nhàng như không, nhưng cái hệ điều hành này thực sự chả được cái tích sự gì khi tôi thật sự cần tới nó. Đầu óc tôi rối bời, cố tìm một lối thoát. Tôi tự hỏi không biết cái áo nơi cô ấy đang cầm đã ướt đẫm mồ hôi chưa.

Lần trước, tôi đã đứng như tượng nữ thần tự do cho tới khi Rita bình tĩnh lại và nói chuyện. Có lẽ sau khoảng mười lần như thế này nữa chuyện này sẽ thành thói quen mất. Tôi biết mình cần nói gì để làm cô ấy bình tâm lại khi nhẹ nhàng ôm cô ấy tựa vào vai tôi. Tuy nhiên điều đó đồng nghĩa với việc tôi sẽ làm giảm mối tương tác giữa người đầu tiên và duy nhất trên thế giới này hiểu tôi rõ ràng nhất. Có gì đó mách bảo tôi tốt nhất là cứ đứng đó mà chịu trận.

Yonabaru đang há hốc mồm nhìn chúng tôi cứ như một vị khách tham quan tới thăm sở thú há to miệng trước một con gấu đột nhiên đứng dậy và bắt đầu nhảy điệu van xơ. Ít nhất thì tôi cũng đã tìm ra cách khiến hắn ta ngậm mồm lại. Ferrell rất chi là tế nhị liếc nhìn đi chỗ khác, nhưng vẫn he hé nhìn lại. Và đó đại khái cũng là cách tất cả những người còn lại trong tiểu đội phản ứng. Trời ạ. Tôi là một con gấu đang khiêu vũ. Đừng nhìn chằm chằm mà. Đừng nói gì hết. Chỉ cần ném tiền lẻ vào cái lon và cút đi.

Bạn nên làm gì khi bạn lo lắng –– khỏa thân trước mặt mọi người chăng? Không, cái đó dành cho lúc bạn phải nói chuyện trước đám đông. Trong huấn luyện họ dạy chúng tôi để khiến bản thân bình tĩnh lại thì tốt nhất là nên nghĩ về thứ gì đó chúng tôi thích. Thứ gì đó khiến chúng tôi cảm thấy vui vẻ. Trong chiến đấu, đây hẳn sẽ là hồi ức tươi sáng nhất để mà ngẫm nghĩ lại, vậy tại sao giờ tôi lại căng thẳng thế này? Nếu Chúa thật sự có câu trả lời thì ông ta cũng chẳng thèm mở miệng ra đâu.

Tôi kéo Rita lại bằng cổ tay. Cô ấy trông rất bối rối.

“Tôi là Keiji Kiriya.”

“Rita. Rita Vrataski.”

“Tôi đoán tôi nên nói ‘Rất vui được gặp cô’.”

“Sao anh lại cười?”

“Ai biết. Chắc là do hạnh phúc, chắc vậy,” Tôi nói.

“Anh thật là một người kỳ lạ.” Khuôn mặt của Rita giãn ra.

“Thư giãn một chút nào.” Đôi mắt tôi nhìn về phía vai cô ấy. “Tôi có hai giờ đồng hồ. Cô sẵn sàng chưa?”

Rita và tôi hộc tốc chạy đi, để lại những gã còn lại trên sân gãi đầu như bị hủi. Chúng tôi băng qua hàng rào sân huấn luyện. Cơn gió phơn thổi từ đại dương khiến làn da chúng tôi mát lạnh. Suốt một hồi chúng tôi chạy chỉ vì được chạy. Bờ biển trải dài bên trái chúng tôi, làn nước xanh thẫm màu cô ban vươn xa bên ngoài hàng rào dây thép gai vô tích sự căng dọc bờ biển. Đại dương vẫn xanh màu trời vì chúng tôi đã tìm ra cách giữ lấy màu xanh ấy. Một con tàu tuần tra rẽ sóng tạo thành một vệt dài trắng xóa song song với lằn ranh phân cách bầu trời cùng đại dương.

Tiếng hét của những người lính nhạt nhòa dần và tan biến. Thứ âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng gầm của biển khơi, những âm thanh xáo trộn khi dày quân dụng đạp trên bê tông, tiếng tim đập siêu hỗn loạn của tôi và tiếng thở dài của cô ấy.

Tôi đột nhiên ngừng chạy và đứng sững lại, y hệt như khi chúng tôi đột ngột chạy đi ấy. Rita không thể phanh lại kịp và đâm sầm vào tôi. Hệ điều hành lại một lần nữa sập nguồn. Tôi bước vài bước trông rất kì. Rita thì trượt chân khi cố lấy lại thăng bằng. Chúng tôi tựa vào nhau để tránh ngã xuống. Bàn tay tôi vòng ra sau lưng Rita và tay cô ấy cũng ở sau lưng tôi.

Mọi nỗ lực điều chỉnh lại cho cân bằng bị cú va chạm làm cho hỏng bét. Làn da cô ấy tì vào người tôi cứ như vỏ giáp vậy. Một cảm giác thoải mái xâm chiếm mọi giác quan. Không có Chiến giáp, tôi hoàn toàn không chút phòng bị trước bất kỳ hóa chất rải rác nào trong không trung.

“Uh, xin lỗi.” Rita là người đầu tiên xin lỗi.

“Không, là lỗi của tôi. Tôi không nên dừng lại đột ngột.”

“Không. Ý tôi là, xin lỗi, nhưng ––“ cô ấy nói.

“Cô không cần phải xin lỗi đâu.”

“Tôi không phải đang muốn xin lỗi. Chỉ là –– anh có thể thả tay tôi ra không?”

“Ah–“ Một vết hằn đỏ nổi lên trên cổ tay Rita, nơi những ngón tay tôi bóp chặt. “Xin lỗi.”

Với tôi, Rita là một người bạn cũ, một người đồng chí trong vô vàn trận chiến. Nhưng với cô ấy, Keiji Kiriya là một người hoàn toàn xa lạ mà cô chỉ vừa mới gặp. Chẳng là gì khác ngoài một bóng hình mờ nhạt từ một khoảng thời không khác. Chỉ có mình tôi nhớ mãi không quên cảm giác thoải mái khi chúng tôi đứng tựa lưng vào nhau. Chỉ có mình tôi được trải nghiệm cảm giác từng luồng điện chạy dọc giữa chúng tôi khi đôi mắt hai người bọn tôi chạm nhau và hiểu được ý định của nhau trong tích tắc. Chỉ có tôi mới có cái thứ cảm giác mong đợi và khát khao ấy.

Trước khi tôi vào quân đội, tôi đã từng xem một chương trình nói về một người đàn ông yêu một người phụ nữ bị mất trí sau một tai nạn. Anh ta hẳn đã phải trải qua những thứ tôi đang trải qua lúc này. Vô vọng đứng nhìn tất cả những gì bạn yêu quý trong thế giới này bị cuốn bay theo làn gió trong lúc bạn chỉ có thể đứng nhìn và bất lực.

“Tôi.... chà...” Tôi thậm chí còn không biết phải nói gì với cô ấy lúc này, mặc dù đã có vòng lặp trước.

“Đây là cái ý tưởng thông minh của anh để đưa hai chúng ta tới đây phỏng?”

“Ừ. Chắc vậy.”

“Tốt thôi. Giờ chính xác thì ta đang ở đâu?” Rita quay gót và nhìn xung quanh.

Chúng tôi đang đứng trên một khoảng không rộng được rào một bên bởi lưới dây thép gai còn ba bên còn lại là hàng rào. Cỏ mọc lên một cách tài tình trên những khe nứt của bê tông, bao phủ diện tích gần mười ngàn mét vuông.

“Sân huấn luyện #3.”

Tôi đã thành công đưa cô ấy từ một sân huấn luyện tới một sân huấn luyện khác. Hay đấy. Tôi đã dành quá nhiều thời gian ở với Ferrell rồi. Tình yêu với huấn luyện của anh ấy sắp đạt đến mức bệnh thần kinh rồi, và nó còn bắt đầu lây sang tôi nữa chứ.

Rita quay về phía tôi. “Nơi này hoang vắng quá.”

“Xin lỗi.”

“Không, tôi thích sự trống vắng ở nơi đây.”

“Khẩu vị cô thật kỳ lạ.”

“Cái đó cũng gọi là khẩu vị à? Nơi tôi lớn lên trống vắng một cách tuyệt vọng. Chúng tôi còn chẳng có biển. Bầu trời ở đây –– thật tuyệt,” cô ấy nghiêng đầu và nói.

“Cô thích nó à? Bầu trời ấ?”

“Không phải bầu trời mà là cái màu của nó. Cái màu xanh lung linh mờ ảo ấy.”

“Thế vậy tại sao chiến giáp của cô lại màu đỏ?”

Một khoảnh khắc im lặng bao trùm lấy chúng tôi, rồi cô ấy nói tiếp.

“Bầu trời tại Pittsfield trống hoác. Cứ như màu của nước sau khi anh rửa cây cọ vẽ còn dính sơn xanh bên trên ấy. Cứ như tất cả nước dưới mặt đất lao lên bầu trời và bám dính trên đấy.” Tôi nhìn Rita. Cô ấy nhìn lại tôi, đôi mắt nâu dày nhìn tôi chằm chằm không dứt, “Xin lỗi. Quên những gì tôi vừa nói đi,” cô ấy nói.

“Sao thế?”

“Đó không phải là những điều Rita Vrataski nên nói.”

“Tôi không biết đấy.”

“Nhưng tôi biết.”

“Chà, tôi nghĩ nó cũng hay mà,” Tôi nói.

Rita mở lớn hai mắt. Trong một khoảnh khắc, chúng lóe lên cái gì đó chỉ của riêng Full Metal Bitch. Toàn bộ những phần còn lại trên mặt vẫn y như vậy. “Anh nói gì cơ?”

“Tôi nói nó nghe cũng hay mà.”

Cô ấy nhìn tôi đầy kinh ngạc. Mái tóc đỏ màu sắt rỉ bay phấp phới trước trán, và cô ấy đưa tay lên vuốt lấy nó. Tôi thoáng thấy đôi mắt cô ấy giữa những kẽ tay. Chúng lấp đầy những tia sáng kỳ lạ. Cô ấy trông như một cô gái với những mối tơ vò trong tim đang dần được tháo gỡ, một đứa trẻ bị lộ tẩy những lời nói dối trước ánh mắt sắc nhọn của mẹ.

Tôi mở lời phá vỡ sự im lặng kì dị. “Có gì không ổn sao?”

“Không.”

“Tôi không có trêu cô đâu. Đó chỉ là thứ tôi muốn nói. Chắc là tôi căn thời điểm không chuẩn.”

“Chúng ta đã từng có một buổi nói chuyện như thế này vào vòng lặp trước, đúng không? Nhưng chỉ có mình anh nhớ,” Rita nói.

“Ừ, tôi xin lỗi.”

“Không sao, tôi không phiền đâu,” cô ấy lắc đầu nói.

“Vậy thì có chuyện gì?”

“Hãy nói cho tôi nghe xem anh định làm gì.”

“Chà, có rất nhiều thứ tôi vẫn chưa hiểu,” Tôi nói. “Tôi cần cô giải thích làm thế nào để kết thúc vòng lặp, đủ dễ hiểu cho người mới bắt đầu.”

“Tôi đang hỏi anh định làm gì tiếp theo để khiến tôi đỡ nhọc công phải nghĩ về chuyện đó.”

“Cô đùa à?” Tôi hỏi.

“Tôi cực kỳ nghiêm túc đấy.”

“Nhưng cô là Rita Vrataski. Cô luôn biết mình phải làm gì.”

“Sẽ rất vui khi trở thành người đứng ngoài vòng lặp một lần chứ sao.”

“Tôi thì không mấy vui vẻ đâu,” Tôi nói. Tôi tự hỏi ý cô ấy là gì khi nói “sẽ”; Tôi nghĩ cô ấy đã được giải thoát khỏi vòng lặp rồi, sau 211 lần trải qua 30 tiếng tại Florida. Tôi há miệng định hỏi, nhưng cô ấy cắt ngang.

“Tôi nghĩ tôi được quyền ngồi không và quan sát một lần chứ,” cô ấy nói. “Tôi đã phải chịu đựng quá nhiều rồi. Lần này tới lượt anh. Anh nên chấp nhận sự thật sớm đi thì hơn.”

Tôi thở dài. “Được rồi.”

“Này, đừng trách tôi chứ.”

“Chà, nếu vậy, giờ thì vẫn hơi sớm, nhưng điểm dừng tiếp theo của tôi là căn tin. Tôi hy vọng cô có tâm trạng thưởng thức đồ ăn Nhật.”

Căn tin đang vô cùng náo nhiệt. Tại một góc, một nhóm lính tráng đang nhìn xem ai là người chống đẩy được nhiều nhất trong ba phút. Một nhóm khác chúng tôi đi ngang qua thì đang chơi trò thi ăn với một thứ chất lỏng thần bí trông như một hỗn hợp của nước sốt cà, mù tạt và nước cam. Tại phía đằng xa nơi cuối căn phòng có vài gã đang hát dân ca và nhạc cổ truyền –– hoặc ít nhất cũng là một bài nhạc nền anime cũ xưa–– thứ nổi tiếng ít nhất bảy mươi năm trước, được đệm bằng đàn banjo. Một trong những giáo phái của lũ người phản động đã dùng nó làm bài ca phản đối chiến tranh, nhưng các vấn đề chi tiết không phải là thứ khiến những gã tại UDF quan tâm. Giai điệu dễ nhớ, chỉ cần thế là đủ để trở thành một bản hit với một đống lính Chiến giáp.

Hãy cùng đi– lính!

Hãy cùng đi– lính!

Hãy cùng đi– lính!

Và tự mình giết vài mống!

* * *


Tôi đã xem cảnh này 159 lần. Nhưng từ khi tôi bị kẹt trong vòng lặp, tôi rất hiếm khi để ý tới những chuyện tại thế giới thực mà không ảnh hưởng trực tiếp tới tôi. Tôi ngồi yên lặng tại một góc nhỏ trong căn tin, cách âm tốt, máy móc nhét thức ăn vô vị vào miệng.

Kể cả trận chiến ngày mai có diễn ra tốt đẹp, vẫn sẽ có vài người lính tại đây chẳng thể quay về. Nếu diễn ra không tốt, số người có thê quay về sẽ còn ít hơn. Ai cũng biết điều đó. Bộ binh trọng giáp là ông già Noel, và chiến trận là lễ giáng sinh của chúng tôi. Những tinh linh còn có thể làm gì trong ngày Giáng sinh nữa ngoài xõa tóc ra và uống một chút rượu đánh trứng.

Rita ngồi đối diện với tôi, ăn bữa ăn trưa giống như 160 lần trước. Cô ấy thử nghiệm món mơ muối lần thứ 160.

“Có chuyện gì à?”

Mơ muối. Đó là mơ ­­–– người ta gọi nó là quả mận, nhưng nó giống quả mơ hơn –– sấy khô dưới ánh mặt trời, và rồi cô đem nó đi ngâm. Ăn thử đi.”

“Nó có vị ra sao?”

“Thức ăn cũng như chiến trường. Cô phải tự cảm nhận thôi.”

Cô ấy cố gắp hai tới ba lần bằng đũa, rồi mặc kệ hết thảy và bỏ cả quả vào miệng. Vị chua tràn ngập khoang miệng cứ như cơ thể bị nổ tung trước một tay đấm hạng cân nặng và cô ấy bị bẻ người cong oằn, lấy tay ôm lấy cổ họng và ngực. Tôi như thấy từng thớ cơ co giật sau lưng cô ấy.

“Thích không?”

Rita chu môi lên mặc dù chẳng ngước lên trên. Cổ của cô căng lên. Có gì đó bay ra khỏi miệng cô –– một hạt mơ sạch bong kin kít đáp xuống cái khay. Cô lấy tay chùi khóe miệng và hít thở sâu.

“Chả chua tí nào.”

“Ở căn tin này người ta đã cố tình muối cho bớt chua đi đấy,” Tôi nói. “Quá nhiều người nước ngoài ở đây mà. Hãy đến thử một vùng địa phương nếu cô muốn hàng thật.”

Tôi gắp một quả mơ muối từ cái khay và đút vào miệng. Tôi nhấm nháp hương vị cứ như thưởng thức một tách cà phê. Nói thật, nó chua tới mức khiến miệng tôi vặn vẹo méo mó, nhưng tôi sẽ không để cô ấy được thỏa mãn khi thấy cảnh đó đâu.

“Khá ngon.” Tôi chắt lưỡi.

Rita đứng dậy, mặt đầy nghiêm nghị. Cô để mặc tôi ngồi trên bàn rồi đi ra chỗ hành lang giữa hai dãy bàn, đi ngang qua mấy thằng lính và đi tới quầy phục vụ. Tại đó, Rachel đang nói chuyện với một con gorilla có thể vươn tay chạm tới trần nhà mà không cần phải nhón chân quá sức – vẫn con gorilla từ vòng lặp #4, cái con đã đấm vào hàm tôi trong tất cả những vòng lặp trước. Người đẹp và Quái thú trông ngạc nhiêm một cách khó hiểu khi thấy chủ đề trong cuộc nói chuyện của họ đi thẳng tới chỗ họ. Toàn bộ căn tin dường như đều thấy có gì đó đang căng lên; những cuộc chém gió tạm ngưng, và nhạc banjo ngừng lại. Cảm ơn Chúa.

Rita đằng hắng để trong giọng. “Cho tôi ít hạt mận khô được không?”

Mơ muối?”

“ừ, chính nó.”

“Chà, được thôi, nếu cô thích.”

Rachel lấy ra một cái đĩa nhỏ và bắt đầu đổ đầy nó bằng món mơ muối từ một cái xô bằng nhựa to.

“Tôi không cần cái đĩa.”

“Gì cơ?”

“Thứ cô đang cầm bằng tay phải. Vâng, là cái xô. Tôi sẽ lấy tất cả chúng.”

“Um, người ta thường không ăn nhiều đến thế trong một lần,” Rachel nói.

“Đó là vấn đề à?”

“Không, chắc vậy– “

“Cảm ơn vì đã giúp đỡ.”

Cầm cái xô trên tay, Rita hân hoan quay lại. Cô ấy thả cái phịch xuống ngay giữa cái bàn trước mặt tôi.

Đường kính miệng xô khoảng ba mươi centimet – một cái xô to tổ bố đủ mơ muối cho khoảng hai trăm người, do chẳng có ai muốn nhiều hơn một quả - được gói hờ trên nóc bằng tờ giấy dầu với dòng chữ đỏ rực mơ muối. To tới mức có thể dìm chết cả một con mèo nhỏ. Cuống lưỡi tôi tê rần khi vừa nhìn thấy nó. Rita đi lấy đôi đũa.

Cô ấy lôi ra một hạt nhăn nheo và đỏ au từ trong xô và đút vào miệng mình. Cô ấy nhai, cô ấy nuốt. Hạt rơi ra khay.

“Chả chua tí nào.” Mắt cô ấy ngân ngấn nước.

Rita đẩy cái xô về phía tôi. Tới lượt của tôi. Tôi chọn quả bé nhất tôi tìm thấy được và bỏ vào miệng. Tôi ăn vào và nhả hạt ra.

“Tôi cũng thấy vậy.”

Chúng tôi đang chơi trò thi ăn của riêng mình. Đầu đũa của Rita rung lên khi cô chọc chúng vào lại trong hũ. Cô nỗ lực hai lần để gắp một quả mơ muối khác bằng đũa trước khi từ bỏ và dùng một cây đũa đơn chọc vào hạt mơ, đưa lên miệng. Nước ngâm chảy long tong từng giọt màu tím, bôi bẩn cái khay khi chúng rơi xuống.

Đám đông những kẻ thích hóng hớt bắt đầu tụ tập quanh chúng tôi. Ban đầu họ quan sát trong im lặng một cách gượng gạo, nhưng cơn phấn khích nổi lên một cách đáng kể trước mỗi hạt được nhả ra khay.

Mồ hôi nhễ nhại trên da chúng tôi như những giọt nước đọng bên ngoài lon bia lạnh trong những ngày nóng nực. Rachel đang đứng ở một bên, quan sát toàn bộ với một nụ cười lo lắng trên môi. Tôi nhận ra anh bạn ở đội #4 đang ở trong đám đông nữa. Anh ta đang rất khoái trá ngắm nhìn tôi chịu đựng cái trò này. Mỗi lần Rita hay tôi bỏ một hạt vào miệng, một tràng cổ động sôi trào giữa đám đông.

“Coi nào, ăn tiếp đi!”

“Không còn đường lui đâu, cố mà nuốt đi!”

“Mày không định để con bé con này thể hiện đó chứ?”

“Fuck, mày nghĩ hắn có thể hạ gục Rita à? Mày điên rồi!”

“Ăn đi! Ăn đi! Ăn đi!”

“Để ý mấy cánh cửa, đừng để ai can thiệp vào! Tao đặt mười đô cho thằng gầy!” ngay tức khắc có gã theo cược, “Hai mươi cho Rita!” Rồi có ai đó hét lên, “Con tôm của tôi đâu? Tôi làm mất con tôm của tôi rồi!”

Nóng. Ầm ỹ. Và không chỉ thế, không hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy như ở nhà. Có một mối liên kết vô hình chỉ có ở đây mà không ở những vòng lặp trước. Tôi cảm giác được ngày mai sẽ ra sao, và đột nhiên tất cả những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống của chúng tôi, những điều vụn vặt trong ngày, đột nhiên đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chỉ vừa nãy thôi, tôi có cảm giác bị vây quanh bởi đám đông này cũng không quá tệ.

Cuối cùng, chúng tôi ăn hết sạch tất cả những viên mơ muối trong hũ. Rita ăn viên cuối cùng. Tôi khăng khăng bảo đó là một trận hòa, nhưng do Rita ăn trước nên cô nhất quyết cho rằng mình thắng. Khi tôi phủ nhận, Rita cười rất gian và đề nghị giải quyết chuyện này bằng cách lấy thêm một hũ nữa. Khó mà nói được nụ cười đó nghĩa là cô ấy có thể ăn tiếp hay do bị quá tải vị chua nên đầu óc cô đã hơi chập chập một chút. Con gorilla ở đội #4 mang thêm một hũ đầy mơ đỏ từ Địa ngục ra và thả cái phịch xuống giữa bàn.

Đến lúc đó, tôi có cảm giác từ thắt lưng mình trở xuống chỉ toàn là mơ muối. Tôi đành vẫy cờ trắng.

Sau đó, tôi kể cho Rita nghe về mọi thứ - Yonabaru người không bao giờ ngậm mồm lại được, Trung sĩ Ferrell và niềm đam mê luyện tập của anh ta, mâu thuẫn giữa chúng tôi và đội #4. Về phần mình, Rita kể cho tôi nghe những chuyện cô vẫn chưa kịp kể trong vòng lặp trước. Khi không khoác bộ Chiến giáp của mình, con Bitch kia mang một nụ cười ngượng ngùng hợp với mình hơn. Đầu ngón tay của cô nồng nặc mùi dầu, nước ngâm mơ, và mơ hồ trong đó chút vị cà phê.

Tôi không biết tôi đã thiết lặp sự kiện gì hay bằng cách nào, nhưng trong vòng lặp thứ 160 này mối quan hệ giữa tôi và Rita sâu sắc hơn bao giờ hết. Buổi sáng tiếp theo, Hạ sĩ Jin Yonabaru không thức dậy ở giường trên. Hắn ta thức dậy trên sàn nhà.


3[]

Tôi không bao giờ có được giấc ngủ ngon. Một con Mimic có thể kết liễu mạng tôi bất kỳ lúc nào, hoặc tôi có thể tắt điện ngay giữa trận chiến. Sau đó ư, chẳng còn gì. Tiếp theo, không hề có một cảnh báo, hư không ập tới. Những ngón tay vốn đang siết cò bỗng dưng lại ở trên cuốn sách bìa mềm. Tôi nhận ra bản thân đang nằm trên giường, bao quanh bởi những ống kim loại, lắng nghe cô nàng DJ với giọng cao vút đọc dự báo thời tiết. Trời đang rất trong xanh và đầy nắng ấm ở ngoài đảo, y như hôm qua, hãy cẩn thận tia cực tím vào buổi chiều. Từng từ một khoan sâu trong sọ tôi rồi kẹt luôn trong đó.

Khi từ “nắng ấm” vang lên là lúc tôi chụp lấy cây bút, đoạn “ngoài đảo” là khi tôi viết con số lên tay, còn khi cô ta nói tới đoạn “tia cực tím” tôi đã bật dậy khỏi giường và chạy tới xưởng vũ khí. Đó là thủ tục thức dậy mỗi ngày của tôi.

Ngủ vào đêm trước trận chiến là một buổi luyện tập kéo dài. Không hiểu vì lý do gì, cơ thể tôi không hề cảm thấy mệt mỏi. Thứ duy nhất xuất hiện trong tôi là những ký ức và những kỹ năng mà tôi thành thục. Tôi dành cả đêm lăn qua lăn lại, đầu óc ngập tràn những bước di chuyển tôi học được vào ngày hôm trước và để nó cài đặt vào não tôi. Tôi phải làm được những gì tôi không thể trong vòng lặp trước, để giết những con Mimic tôi không thể giết, để cứu những người bạn tôi không thể cứu. Y như việc chống đẩy tổng hợp trong đầu vậy. Màn hành xác vào ban đêm của riêng tôi.

Tôi thức dậy trong trạng thái chiến đấu. Giống như phi công gạt từng nút bấm trước khi hạ cánh, tôi kiểm tra từng phần cơ thể, kiểm tra xem có bắp cơ nào bị đau sau tối qua không. Một ngón chân có hơi tím lại cũng không bị tôi bỏ qua.

Xoay mông 90 độ, tôi nhảy ra khỏi giường và mở mắt. Tôi chớp mắt. Mắt tôi nhòe đi. Căn phòng trông khang khác. Cái đầu ông thủ tướng ở trên thân cô nàng người mẫu áo tắm hôm nay không nhìn chằm chằm vào tôi. Ngay lúc tôi để ý, mọi chuyện đã quá muộn; chân tôi bước hụt xuống một bậc thềm vốn dĩ không ở đó và quán tính khiến tôi ngã nhào ra khỏi giường. Đầu tôi va vào sàn nhà lát gạch, và tôi cuối cùng cũng nhớ ra tôi đang ở đâu.

Những tia nắng mặt trời xuyên qua lớp kính chống chấn động và tràn vào trong căn phòng rộng và lộng gió. Một ngọn gió nhân tạo từ máy lọc thổi lên người tôi khi tôi nằm dài trên sàn nhà. Những bức tường cũng những tấm kính dày cách âm hoàn toàn khu căn cứ vốn thường rất ầm ỹ trong tai tôi.

Tôi đang ở trên Phòng nghỉ Ngoài trời. Trong một căn cứ chỉ toàn sắt thép và những thanh gỗ kháng lửa màu kaki, đây là căn phòng đầu tiên và duy nhất xứng với cái từ ‘căn phòng’. Đây vốn là phòng họp của các sĩ quan cấp cao và cũng là phòng tiếp khách, vậy nên quang cảnh ban đêm của Uchibo qua khung cửa sổ lót kính đa lớp ở đây tương đối đáng đồng tiền bát gạo.

Cũng như khung cảnh tuyệt vời, nơi đây không phải là một nơi giúp bạn dễ dàng rời khỏi giường, trừ khi bạn là một con dê núi hay một nhà tu khổ hạnh với tình yêu tuyệt đối tới các đấng trên cao. Hoặc bạn là Yonabaru. Tôi có nghe đồn hắn ta có một chỗ bí mật ở đây, ở tầng cao hơn cả nơi những sĩ quan cấp cao được phép tới. “Cái tổ ấm tình yêu của hắn,” chúng tôi gọi nó là vậy.

Cái ổ chim yêu dấu thì đúng hơn.

Nhìn về phía đại dương tôi có thể thấy được đường chân trời cong cong thoai thoải. Bãi biển Uchibo trông mờ mờ ảo ảo trong làn sương mù buổi ban mai. Từng đợt sóng dâng lên, biến thành bọt trắng rồi tan biến vào trong lòng đại dương. Xa xa bên ngoài những ngọn sóng đó là hòn đảo mà Mimic đã biến nó thành nơi đẻ trứng. Trong tích tắc, tôi nghĩ tôi đã thấy cái gì đó xanh màu lá cây lóe lên trong những ngọn sóng. Tôi chớp mắt. Ở đó chỉ còn lại ánh nắng lấp lóa phản chiếu trên mặt nước.

“Tối qua anh ngủ ngon phết nhỉ.” Rita đi ra từ một căn phòng khác và đứng lại bên tôi.

Tôi từ từ ngước lên. “Cảm giác cứ như hằng bao nhiêu năm trời rồi.”

“Năm?”

“Kể từ lúc tôi có một giấc ngủ ngon. Tôi đã quên mất nó ra sao rồi.”

“Câu chuyện điên rồ về vòng lặp ha.”

“Cô phải biết chứ.”

Rita vẫy tay tỏ ý đồng tình.

Vị cứu tinh của chúng tôi, Full Metal Bitch, sáng hôm nay trông cô thư thái hơn bao giờ hết. Đôi mắt cô ấy dịu dàng hơn trong những tia nắng ban mai, và nắng vàng cũng khiến mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy lấp lóa ánh cam. Cô ấy trao cho tôi một ánh mắt y chang ánh mắt cô thường trao cho con cún theo đuôi cô về nhà. Cô ấy điềm tĩnh cứ như một nhà sư. Cô ấy thật xinh đẹp.

Căn phòng đột nhiên bừng sáng, và tôi híp mắt lại trước ánh hào quang. “Mùi gì thế nhỉ?”

Một hương vị rất đặc trưng hòa trộn với không khí trong lành nhả ra từ máy lọc. Nói thật mùi đó cũng không tệ cho lắm, nhưng tôi khó mà coi đó là một mùi hương dễ chịu được. Nếu là của thức ăn thì quá hăng, nếu là của nước hoa thì lại quá nồng. Nói thật, tôi chả biết nó là cái quái gì.

“Tôi chỉ vừa mới mở cái túi ra thôi mà. Mũi của anh thính như gì ấy.”

“Trong huấn luyện họ bảo chúng tôi phải cảnh giác trước bất kỳ mùi vị kỳ lạ nào, do có thể bộ lọc khí của Chiến giáp gặp vấn đề - tất nhiên giờ tôi giờ không ở trong Chiến giáp.”

“Tôi chưa từng gặp người lại lẫn lộn mùi thức ăn và vũ khí hóa học đấy,” Rita nói. “Anh không thích mùi này sao?”

“Thích không phải là từ tôi sẽ dùng. Nó có mùi ... kỳ quái.”

“Chả lịch sự tí nào. Đấy là cách anh nói cảm ơn tôi vì pha cho chúng ta một ấm cà phê vào buổi sáng đấy ư?”

“Đó là .... cà phê à?”

“Tất nhiên rồi.”

“Đây không phải là cách cô trả đũa tôi sau vụ mơ muối đấy chứ?”

“Không, đây là cái mùi đích thực của hạt cà phê thu hoạch từ những cây cà phê đích thực. Chưa từng thử à?”

“Ngày nào mà tôi chả uống cái thứ nước gạo rang nhân tạo ấy.”

“Cứ chờ tới khi tôi pha nó đã. Mùi thế này vẫn chưa là gì đâu.”

Tôi không hề biết rằng hạt cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại trên thế giới này. Chuyện là, tôi nghi ngờ rằng dù cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại ở đâu đó nhưng cũng khó mà tìm được người vẫn còn giữ được thói quen uống chúng.

Thứ đồ uống thay thế cho cà phê ngày này được làm từ những hạt trồng trong phòng thí nghiệm, với hương liệu nhân tạo để tạo ra mùi vị. Hàng thay thế không thể nặng mùi như những hạt Rita đang xay, và không xộc vào mũi bạn và chui sâu vào từng ngõ ngách trong phổi bạn như chúng làm. Tôi nghĩ bạn có thể coi cái mùi của hàng nhân tạo kia tiệm cận với hàng thật, nhưng cái khoảng tiệm cân kia nó cũng như là cách biệt giữa viên đạn súng ngắn 9mm với vỏ đạn chống tăng 120mm.

“Để lấy được thứ đó cũng cần chút vận may không nhỏ đâu,” tôi nói.

“Tôi đã kể cho anh chúng tôi từng ở tiền tuyến tại Bắc Phi trước khi tới đây đúng không. Đó là một món quà từ một trong những dân làng được chúng tôi giải cứu.”

“Món quà được đấy.”

“Được làm nữ hoàng cũng không tệ đến vậy, anh thấy đấy.”

Một cái máy xay cà phê bằng tay đặt giữa chiếc bàn thủy tinh. Một thiết bị nho nhỏ với hình dáng rất đặc thù –– tôi đã từng thấy một cái ở cửa hàng đồ cổ. Bên cạnh đó là một thứ trông có vẻ như là một cái phễu tráng men bọc bằng một lướp vải màu nâu. Tôi đoán cái đó dùng để đặt cà phê đã xay vào giữa và đổ nước vào.

Một bếp ga quân dụng và một cái quạt cao áp chiếm lấy giữa căn phòng. Hai cái tách được đặt gần đó, một cái có một vết mẻ be bé còn cái kia thì trông mới tinh. Tại mép bàn có một cái túi nilon có thể đóng lại được, bên trong chất đầy những hạt cà phê màu nâu tối.

Rita hình như chả có nhiều tư trang cá nhân lắm. Hành lý thì chỉ có mỗi một cái ba lô vải nilon bán trong suốt đặt dưới chân bàn –– nó trông giống như cái túi của mấy gã vận động viên quyền anh ấy. Không có những dụng cụ pha cà phê đi kèm, cái túi nằm sõng soài, gần như chả có gì. Những người lính được gửi tới tít tận góc khuất của quả đất thường được nhắc nhở không mang quá nhiều hành lý, nhưng kể cả xét trong tiêu chuẩn đó thì hành lý của Rita cũng quá nhẹ. Một trong những hành lý cô mang theo là máy xay cà phê bằng tay, và thứ đó chả giúp cô bớt kỳ quặc là mấy.

“Anh có thể chờ trên giường nếu muốn.”

“Tôi thích đứng xem hơn,” Tôi nói. “Cái này hay đấy.”

“Vậy thì để tôi xay nhé.”

Rita bắt đầu quay cái tay cầm của máy xay cà phê. Thứ âm thanh sột soạn choán đầy cả căn phòng và chiếc bàn thủy tinh rung lên bần bật. Vài lọn tóc quăn quăn trên đỉnh đầu của cô cũng đung đưa phất phơ.

“Khi trận chiến kết thúc, tôi sẽ mời cô thưởng thức món trà xanh tuyệt vời nhất mà cô từng được thưởng thức –– để hồi đáp cho món cà phê này.”

“Tôi nghĩ trà xanh bắt nguồn từ Trung Quốc chứ.”

“Có lẽ nó khởi nguồn từ đó, nhưng nơi đây mới là nơi khiến nó trở nên hoàn hảo. Phải mất hàng đống thời gian thì họ mới cho phép đem nó đi xuất khẩu đấy. Tôi tự hỏi chúng ta nên dùng loại gì đây.”

“Họ có phục vụ nó miễn phí tại nhà hàng à?”

“Đúng vậy.”

Sau chiến tranh...” Rita nói nghe có hơi đượm buồn.

“Này, trận chiến này rồi sẽ kết thúc mà. Chắc chắn luôn. Tôi và cô sẽ thấy được ngày đó.”

“Anh nói đúng. Tôi chắc chắn anh sẽ thấy được.” Rita lấy những hạt đã xay ra và đổ vào tấm vải lọc phủ lấy cái phễu. “Đầu tiên anh phải tráng sơ chúng đã.”

“Hử?”

“Mùi vị sẽ hoàn toàn thay đổi luôn. Một ông bạn già của tôi đã từng chỉ cho tôi. Tôi không hiểu tại sao nó lại có tác dụng, nhưng nó thực sự có tác dụng.”

Cô ấy thấp nước lên những hạt cà phê tươi nguyên đã được xay bằng nước âm ấm. Những bong bóng màu kem nổi lên nơi nước chạm vào cà phê. Một hương vị đắng chát, ngọn ngào và chua chua bùng nổ trong khoảng không quanh cái bàn.

“Mùi vẫn kì kì à?”

“Thơm quá.”

Bằng những chuyển động tròn đều, Rita cẩn thận đổ nước vào. Từng giọt một, thứ chất lỏng màu nâu sáng long lanh bắt đầu nhỏ tong tong xuống chiếc cốc kim loại đang chờ ở bên dưới.

Một làn hơi mỏng bắt đầu bốc lên từ cái cốc khi âm thanh đinh tai nhức óc xuyên qua những lớp tường dày và tấm kính cường lực tại phòng nghỉ trên không. Sàn nhà rung lên. Rita và tôi rơi xuống đất ngay sau một nhịp tim. Mắt chúng tôi chạm vào nhau.

Không có những tiếng kêu leng keng của chiếc đèn chùm làm bằng thủy tinh, chỉ có một thứ âm thanh chấn động đầy sắc bén, cứ như có ai đó vứt quyển danh bạ điện thoại dày cộp xuống sàn nhà. Những vết nứt hình mạng nhện lan ra trên ô cửa sổ, một mũi giáo màu đất nằm ngay giữa tấm lưới đó. Thủy tinh lỏng màu tím tràn ra khỏi vết nứt và đổ đầy xuống sàn.

Quá muộn, còi báo động bắt đầu vang vọng khắp căn cứ. Ba cột khói to bốc lên ở bên ngoài cửa sổ. Mặt nước ngoài bãi biển bắt đầu chuyển thành màu xanh tái mét.

“Một –– một đợt tấn công?” Giọng tôi run rẩy. Có lẽ cả cơ thể tôi cũng vậy. Trong 159 vòng lặp trước chưa từng có đợt tấn công bất ngờ nào. Cuộc chiến vốn phải bắt đầu sau khi chúng tôi hạ cánh tại Đảo Kotoiushi.

Loạt đạn thứ hai và thứ ba lao vào cửa sổ. Cả tấm kính lõm vào bên trong nhưng vẫn chưa vỡ tung ra. Những vết nứt lan ra khắp ô cửa sổ. Từng tia sáng chói chang chọc vào mắt tôi.

Rita đã đứng dậy và bình tĩnh để cái chảo rang lên trên bếp ga. Cô ấy tắt lửa rất chuyên nghiệp.

“Cái cửa kính này không tồi đâu. Đúng là không thể trông mặt mà bắt hình dong,” Rita lẩm bẩm.

“Chúng ta phải phản công –– không, tôi phải đi tìm trung sĩ –– chờ đã, Chiến giáp của chúng ta!”

“Đầu tiên anh cứ bình tĩnh lại đã.”

“Nhưng, chuyện gì đang xảy ra!” Tôi không định hét lên, nhưng tôi chẳng kìm lại được. Tất cả chỗ này làm gì có trong kịch bản. Tôi đã bị lặp thời gian nhiều lần tới mức từng sự kiện trong tiểu thuyết đều đã bị tôi học thuộc tới mức ám ảnh. Cái sự kiện bị một mũi giáo nổ tung trước những ô cửa trong căn phòng tôi đang đứng thật là vô lý.

“Những con Mimic sử dụng vòng lặp để chiến thắng. Anh không phải là người duy nhất nhớ được những gì xảy ra tại các vòng lặp trước.”

“Vậy đây là do tôi đã khuấy đảo mọi chuyện trong vòng lặp trước?”

“Lũ Mimic hẳn đã quyết định đây là cách duy nhất giúp chúng thắng được. Thế thôi.”

“Nhưng... căn cứ,” Tôi nói. “Sao chúng lọt vào đây được?”

“Chúng đã từng đi xuyên qua Mississippi để tấn công Illinois. Chúng là những sinh vật biển. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng tìm ra cách vượt qua vòng phòng vệ được tạo ra bởi một đám người trú ngụ trên đất liền.” Rita bình tĩnh đáp.

“Chắc vậy.”

“Để mấy gã thượng cấp lo chuyện đó đi. Với tôi và anh, chuyện này chỉ có nghĩa là chúng ta chiến đấu tại đây thay vì Kotoiushi thôi mà.”

Rita vươn tay ra. Tôi nắm lấy nó và cô ấy kéo tôi đứng dậy. Những ngón tay ấy chai sạn tại những chỗ giao tiếp với Chiến giáp. Lòng bàn tay vừa cầm chiếc chảo rán ấy ấm ơn của tôi nhiều. Tôi có thể cảm thấy nỗi lo sợ thắt chặt lấy lòng ngực trong tôi bắt đầu vơi bớt.

“Công việc của một người lính Chiến giáp là giết sạch mọi con Mimic trong tầm ngắm. Đúng không?”

“Ừ. Ừ, chính xác.”

“Chúng ta sẽ tới nhà chứa máy bay của quân Hoa Kỳ trước. Tôi sẽ lấy Chiến giáp của tôi. Chúng ta sẽ lấy vũ khí cho cả hai. Tôi sẽ bảo vệ anh trên đường tới nhà chứa máy bay Nhật. Rõ chưa?”

“Rõ rồi.”

“Rồi chúng ta sẽ đi săn con server và giết nó. Kết thúc vòng lặp. Sau đó, chỉ cần dọn dẹp những gì còn lại.” Tôi ngừng run rẩy. Rita xẹt qua một nụ cười đanh thép. “Chẳng có thời gian thưởng thức cà phê sáng rồi.”

“Kết thúc nhanh trước khi nó nguội mất nào,” Tôi nói, vươn tay lấy một tách.

“Đùa hay thật vậy?”

“Mất công nghĩ lắm đó.”

“Mặc dù vậy nghe cũng vui đấy. Cà phê đun lại sẽ không còn mùi vị như trước nữa. Và nếu anh để phơi trần nó bên ngoài, sau khoảng ba ngày nó sẽ bắt đầu đóng ván. Chuyện đó từng xảy ra một lần hồi tôi còn ở Châu Phi. Tức muốn nổ đom đóm mắt.”

“Uống có ngon không?”

“Vui nhỉ.”

“Nếu cô không uống, sao cô biết được nó không ngon?”

“Anh thích thì đi uống cà phê đóng ván. Đừng bắt tôi dọn dẹp sản phẩm thải ra của anh sau khi anh buồn nôn là được. Đi nào.”

Rita đi ra khỏi bàn, để lại sau lưng tách cà phê hoàn toàn tự nhiên được pha nguyên chất. Khi chúng tôi đi ra khỏi phòng, một cô nàng nhỏ nhắn đang tì vào cửa ngã nhào vô bên trong, làm rơi cả cái mũ lông chim và mấy phụ kiện ba lăng nhăng khác. Mái tóc đen được tết lại thành bím thò ra đằng sau cái mũ kỳ quái. Cô nàng người Mỹ chính gốc được người người yêu mến, Shasta Raylle.

“Chúng ta bị tấn công! Chúng ta bị tấn công!” cô ấy hét lên, gần như đứt hơi. Khuôn mặt cô nàng hằn sọc những vệt sơn đỏ và trắng. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết trong mấy cái vòng lặp này chỉ có riêng tôi trở nên điên điên khùng khùng khi dành những giây cuối cùng của cuộc đời nằm trong hố bom bốc khói không nữa.

Rita bước lùi một bước để đánh giá chính xác một trong những bộ não vĩ đại nhất trong trường MIT. “Bộ lạc da đỏ nào tấn công vậy?”

“Không phải bộ lạc! Lũ Mimic!”

“Đây là cách cô ăn mặc trước mỗi trận chiến à?”

“Không tốt sao?” Shasta hỏi.

“Tôi không phải là người hay chỉ trích tôn giáo hay phong tục của người khác, nhưng tôi phải nói cô lỡ mất hai trăm năm để làm thầy phù thủy rồi.”

“Không, cô không hiểu!” Shasta nói. “Họ bắt tôi mặc thế này trong bữa tiệc tối qua! Chuyện này luôn xảy ra khi cô không ở bên.”

Có lẽ ai cũng có nỗi khổ của riêng mình, tôi nghĩ vậy.

“Shasta, sao cô lại ở đây?” Rita nói với vẻ khá kinh ngạc.

“Tôi tới đây để báo cho cô biết rìu chiến của cô không ở trong nhà chứa máy bay, nó ở trong công xưởng.”

“Cảm ơn vì đã báo tin nhé.”

“Cẩn thận ở ngoài kia đấy.”

“Cô đang làm gì ở đây?”

“Tôi không thể chiến đấu, nên tôi nghĩ tôi sẽ tìm nơi nào đó an toàn để trốn ––“

“Dùng phòng của tôi này,” Rita nhanh nhẩu nói. “Những mũi giáo không thể đâm xuyên qua tường hay cửa kính. Trông thế thôi chứ nó bền lắm đấy. Cô chỉ cần giúp tôi một chuyện là được.”

“Một... chuyện?”

“Đừng để ai vào đây cho tới khi tôi hoặc anh ta quay lại.” Rita chĩa ngón tay về phía tôi. Tôi nghĩ Shasta còn không nhận ra ở đây còn một người khác đang đứng bên cạnh Rita cho tới tận lúc này. Tôi gần như nghe được tiếng đôi mắt to tròn kia chớp chớp từ đâu đó đằng sau cặp kính dày cộp khi cô ấy nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi vẫn chưa gặp Shasta Raylle trong vòng lặp này.

“Và anh là...?”

“Keiji Kiriya. Rất hân hạnh.”

Rita bước tới cánh cửa. “Cô không được để cho ai vào, dù cho họ là ai hay họ nói gì. Kể cả tổng thống có tới thì cứ bảo ông ấy cút đi.”

“Yes sir!”

“Trông cậy cả vào cô đấy. Ồ, và thêm một chuyện nữa ––“

“Hử?”

“Cảm ơn vì lá bùa may mắn. Tôi sẽ cần tới nó đấy.”

Rita và tôi vội vã chạy ra nhà chứa máy bay.


4[]

Ngay lúc Rita và tôi đang thực hiện chuyến hành trình từ Nhà nghỉ Trên không, Lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ đã thiết lập một hành lang phòng vệ lấy nhà chứa máy bay làm trung tâm.

Hai phút cho Rita mặc Chiến giáp. Một phút bốn mươi lăm giây để chạy tới công xưởng của Shasta. Sáu phút mười lăm giây để hạ hai con Mimic chúng tôi bắt gặp trên đường tới nhà chứa máy bay Nippon. Vậy tổng cộng là mười hai phút ba mươi giây đã qua kể từ khi chúng tôi rời khỏi Nhà nghỉ Trên không.

Căn cứ đã trở nên hỗn loạn. Những ngọn lửa như liếm lên bầu trời, phương tiện giao thông thì ngổn ngang trên đường. Khói mù đổ đầy trên những con đường chia cách doanh trại, khiến tầm nhìn bị hạn chế. Những viên đạn pháo khạc ra từ những họng súng ngắn, hoàn toàn vô dụng trước lũ Mimic, nổ tung trong không trung, chìm nghỉm trong tiếng gầm của khẩu súng phóng tên lửa. Những mũi giáo đâm vào những máy bay chiến đấu khi chúng lao lên bầu trời, đánh gãy những cánh quạt và khiến chúng lao đầu xuống đất.

Cứ một người chạy lên phía bắc để né tránh cảnh tàn sát thì lại có một người chạy xuống phía nam. Không tài nào biết được nơi nào là an toàn. Đợt tấn công bất ngờ đã đánh một đòn phủ đầu lên chuỗi mệnh lệnh chỉ huy. Tại cấp trên chẳng có một ai hiểu được chuyện gì đang xảy ra rõ hơn những người ở cấp dưới.

Chẳng thấy nhiều xác Mimic lắm, và mười ngàn Chiến giáp trong căn cứ cũng chả có tăm hơi nào. Xác người rải rác la liệt khắp nơi. Chỉ cần liếc phần thân trên nát bấy là biết ngay họ đã lên bảng đếm số.

Một người lính đã chết nằm úp mặt xuống đất cách nhà chứa máy bay của tôi khoảng ba mươi mét. Phần thân trên đã bị xé nát ra, nhưng anh ta vẫn đang dùng hai tay nắm chặt băng đạn. Dưới làn bụi mỏng đó có một cô nàng ngực trần tóc vàng hoe tươi cười ngước nhìn từ trong trang giấy. Tôi biết rõ cái bộ ngực kỳ vĩ đó từ đâu ra. Cái gã nằm ở giường bên cạnh tôi đã nhìn chằm chằm vào chúng mỗi khi tôi và Yonabaru nói chuyện trong doanh trại. Đó là Nijou.

“Khổ thân, thằng khốn chết trong khi xem porn,” Tôi nói.

“Keiji, anh biết chúng ta phải làm gì mà.”

“Ừ, tôi biết. Sẽ không thể quay ngược lại vào lần này. Dù là ai chết đi chăng nữa.”

“Không còn nhiều thời gian đâu. Đi thôi.”

“Tôi đã sẵn sàng.” Trong một giây, tôi đã nghĩ vậy. “Chết tiệt! Đây đâu phải là trận chiến, một cuộc tàn sát thì đúng hơn.”

Cửa nhà chứa mở ra. Trên đó có dấu vết có người đã dùng xà beng để phá khóa. Rita kéo một trong những chiếc rìu chiến xuống mặt đất và mở chốt khẩu súng trường 20mm treo sau lưng.

“Anh có năm phút.”

“Tôi chỉ cần ba thôi.”

Tôi chạy vào trong nhà chứa. Đó là một căn nhà dài và hẹp với những chiếc Chiến giáp xếp thành hai hàng ngay ngắn. Mỗi căn nhà này chứa đủ Chiến giáp cho một tiểu đội, hai mươi lăm cái tựa vào tường. Không khí trong phòng nặng nề và ẩm thấp. Những ánh đèn treo trên tường cứ chớp nháy tắt mở. Hầu hết các Chiến giáp đều đang treo trên móc, lạnh lẽo không chút sự sống.

Cái mùi nồng nặc của máu gần như khiến tôi bủn rủn tay chân. Một vũng máu to tướng đọng lại giữa phòng, bám dính lên sàn bê tông. Đủ để đổ đầy một bồn rửa mặt. Hai vệt dài nhìn như được vẽ bằng cọ vẽ chảy dài từ vũng máu tới cửa bên kia, nằm tại đằng xa nơi cuối nhà chứa.

Ai đó đã bị thương nghiêm trọng tại đây, và dù là ai kéo họ đi cũng không đủ sức người hay trang thiết bị để đưa đi một cách nghiêm chỉnh. Nếu tất cả chỗ máu này đều là của một người, họ chắc chắn đã chết. Một đống Chiến giáp đang nằm ngổn ngang dưới mặt đất, y hệt như những vỏ da sau khi lột xác của một loài quái thú hình người nào đó.

Chiến giáp trông giống một trong bộ trang phục đáng yêu mà nhân viên hay mặc trong mấy công viên giải trí để họ trông giống cái con chuột lúc nào cũng cười như điên kia. Khi bên trong không có ai, chúng chỉ biết treo trên tường với cái lỗ trống hoác sau lưng, chờ đợi ai đó leo vào.

Từ khi Chiến giáp đọc được mọi tín hiệu xung điện cơ bắp, các bộ giáp đặc hiệu được tạo ra. Nếu bạn mặc Chiến giáp của người khác, không ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể nó sẽ không di chuyển tí nào, hoặc có thể nó sẽ bẻ gãy xương bạn như bẻ gãy một cành cây, nhưng dù kết quả là gì thì nó cũng không tốt đẹp cho lắm. Không ai được tốt nghiệp khóa học căn bản mà không biết tới chuyện đó. Những chiếc chiến giáp trên nền đất là bằng chứng thiết thực nhất rằng ai đó đã bỏ qua luật cơ bản đó trong trạng thái không còn gì để mất. Tôi lắc đầu.

Chiến giáp của tôi vẫn nằm nguyên trên giá. Tôi leo lên. Trong ba mươi bảy thao tác kiểm tra, tôi bỏ qua hai mươi sáu.

Một bóng đen di chuyển tới cuối nhà chứa, nơi được máu dẫn đường –– ở phía mà Rita không để ý. Hệ thần kinh của tôi ngay lập tức chuyển sang chế độ cảnh giác. Tôi chỉ cách cánh cửa hai mươi mét, có khi còn ít hơn. Một con Mimic có thể băng qua khoảng cách đó trong chưa đầy một giây. Một mũi giáo còn nhanh hơn.

Tôi có thể giết một con Mimic bằng tay không không? Không. Tôi có thể giải quyết nó không? Có. Mimic di chuyển còn nhanh hơn Chiến giáp, nhưng các bước di chuyển của chúng lại quá dễ đọc. Tôi có thể né nó dễ dàng và áp sát tường hòng kiếm thêm thời gian để tới chỗ Rita. Trong vô thức, tôi giả lập tình hình trận chiến trong đầu, quay chân phải theo chiều kim đồng hồ và chân trái thì ngược chiều kim đồng hồ. Rồi cái bóng rút cục cũng lộ diện: Đó là Yonabaru.

Hắn ta ướt đẫm máu từ trên hông xuống. Máu khô thấm đẫm trên trán. Hắn ta trông như một gã họa sĩ bẩn thỉu. Một nụ cười thay thế cho vẻ căng thẳng trên mặt hắn và hắn bắt đầu chạy về phía tôi.

“Keiji, chết tiệt, cả sáng nay anh vẫn chưa thấy mày. Lo phát chết.”

“Em cũng vậy. May mà anh vẫn ổn.” Tôi hủy phần mềm né tránh mà cơ thể tôi đang định thao tác và bước lại chỗ áo quần tôi để trên sàn.

“Chú mày nghĩ chú mày đang làm gì hả?” hắn ta hỏi.

“Còn gì nữa? Em đi giết thêm vài con Mimic.”

“Mày điên hả? Đây đâu phải lúc làm việc đó.”

“Thế anh có việc gì tốt hơn để làm à?”

“Anh không biết, có thể là rút lui một cách yên bình và trật tự, hay tìm lấy một nơi Mimic không tới được. Hoặc chỉ đơn giản là chạy cmn luôn!”

“Người Mỹ đang chuẩn bị ra trận đấy. Chúng ta cần tập hợp với họ.”

“Họ đâu phải là chúng ta. Quên họ đi. Nếu chúng ta không rời đi ngay lúc này thì sẽ không còn cơ hội nào khác đâu.”

“Nếu chúng ta chạy, ai sẽ ở lại đánh nhau?”

“Chú mày bị mớ à? Tỉnh lại đi!”

“Đây là lý do chúng ta được huấn luyện.”

“Căn cứ đã mất, thằng em à, nó đã mất rồi.”

“Vẫn chưa nếu Rita và em vẫn còn ở đây.”

Yonabaru nắm lấy cánh tay Chiến giáp của tôi, thực ra là đang cố kéo tôi như một đứa trẻ dùng hết sức lực níu lấy tay cha mà đòi dẫn tới tiệm đồ chơi. “Mày điên rồi, thằng em. Dù là chú mày hay là anh thì cũng chẳng thể gây thêm sự khác biệt nào đâu,” hắn ta nói và tiếp tục kéo. “Có lẽ đây là giác ngộ trách nhiệm của chú mày, danh dự, kiểu kiểu thế. Nhưng tin anh đi, chẳng có ai trong chúng ta có nghĩa vụ và trách nhiệm đi tự sát chẳng vì cái gì. Anh và chú mày chỉ là những người lính bình thường. Chúng ta không giống Ferrell hay những gã trong Lực lượng Đặc nhiệm. Cuộc chiến không cần tới chúng ta.”

“Em biết.” Tôi gỡ tay Yonabaru bằng một cú lắc khẽ. “Nhưng em cần cuộc chiến.”

“Ý chú thực sự là vậy, phải không?”

“Em không hy vọng anh hiểu được.”

Rita đang đợi tôi. Tôi đã mất bốn phút rồi.

“Đừng nói anh chưa cảnh báo chú mày đó.”

Tôi mặc kệ câu nói hờn dỗi của Yonabaru và chạy ra khỏi nhà chứa. Rita và tôi không phải là những người lính duy nhất đang mặc Chiến giáp. Màn hình của tôi sáng trưng những điểm sáng thông báo đồng đội. Co cụm thành những nhóm hai hay ba người, họ đang núp trong căn cứ hay đằng sau những chiếc xe đã lật nhào, nơi họ có thể nhảy ra nhảy vào và bắn vài loạt đạn ngắn.

Đợt tấn công bất ngờ của lũ Mimic không có một khe hở. Những người lính hoàn toàn bị ngắt kết nối tới các mệnh lệnh chỉ đạo. Kể cả những người mặc Chiến giáp kia cũng không chiến đấu như một tiểu đội kỷ luật cao –– trông giống thường dân được vũ trang hơn. Để lực lượng bộ binh vũ trang thật sự đối trọng được với Mimic, họ phải lao ra khỏi nơi ẩn nấp và ném mọi thứ họ có vào mặt kẻ thù chỉ để khiến chúng chậm lại. Một đấu một, kể cả hai đấu một thì họ cũng chẳng hề có chút cơ hội chiến thắng nào.

Những biểu tượng thân thiện chớp nháy trên màn hình của tôi, và rồi vụt tắt. Số lượng đồng chí vẫn đang giữ ở mức ổn định hầu hết là nhờ công của lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ. Số lượng biểu tượng Mimic vẫn đang dần dần tăng lên. Một nửa tín hiệu liên lạc là các xung điện từ chói tai, còn nửa còn lại là hỗn hợp của những âm thanh gào thét hoảng loạn và “Fuck! Fuck! Fuck!” Tôi không hề nghe thấy ai ra mệnh lệnh. Dự đoán của Yonabaru có vẻ sắp thành hiện thực rồi.

Tôi mở đường dây liên lạc tới Rita. “Giờ thì sao?”

“Thi hành sở trường của chúng ta thôi. Giết thêm vài con Mimic.”

“Cụ thể hơn chút được không?”

“Theo tôi. Tôi sẽ cho anh thấy.”

Chúng tôi lao vào trận chiến. Chiến giáp đỏ rực của Rita là ngọn cờ để đội quân tan rã như ong vỡ tổ bắt đầu tập hợp lại phía sau. Chúng tôi chạy qua từng người lính một, tập hợp họ lại. Cho tới khi con Mimic cuối cùng chết, chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục như vậy.

Chiến thần Valkyrie bay từ đầu bên này Chiến tuyến Flower sang đầu bên kia một cách tùy ý, mang theo thông điệp không lời của hy vọng cho tất cả những người thấy cô. Kể cả quân Nhật Bản, những người chưa từng thấy tận mắt Chiến giáp của cô ấy, vẫn cứ chiến đấu bên cạnh cô, hồi phục lại tinh thần ngay sau khi nhìn thấy lớp kim loại đỏ rực sáng lấp lánh đó. Nơi gót chân cô đi qua là nơi trái tim của trận chiến theo sau.

Trong chiến giáp của mình, Rita là vô địch. Người cộng tác cùng cô ấy, nói thật anh ta vẫn có vài nhược điểm, nhưng không có con Mimic nào kháng cự được trước tôi đâu. Lũ kẻ thù của nhân loại đã gặp phải đao phủ của chúng rồi. Đây là lúc cho lũ Mimic thấy địa ngục nơi chúng đã sảy chân rơi vào sâu đến mức nào.

Mang theo vũ khí và áo giáp từ trong cái chết, chúng tôi khiêu vũ điệu jitterbug ngang dọc chiến trường. Nếu một tòa nhà chắn trên đường chúng tôi đi, chúng tôi tự vạch ra con đường mới bằng rìu chiến của mình. Chúng tôi kích nổ một trạm xăng để tiêu diệt hoàn toàn một đám Mimic. Chúng tôi vặn đổ tháp ăng ten và dùng nó làm vật cản. Full Metal Bitch và hộ vệ của cô là những hiện thân thép của tử thần.

Chúng tôi chạy qua chỗ một gã đang núp sau một chiếc xe quân dụng đang bốc cháy. Một con Mimic đang săn lùng hắn, và không cần nói tôi cũng biết đây là con dành cho tôi. Tôi đâm, và con Mimic ngã xuống. Tôi nhanh chóng lao tới giữa cái xác Mimic và người đàn ông để bảo vệ ông khỏi lớp cát dẫn điện rò rỉ ra từ người nó. Không có Chiến giáp để lọc và loại bỏ những con nanobot, đống cát đó là một thứ độc dược.

Rita bảo vệ quanh người đàn ông đang bị thương. Khói bay ra từ trong xe, khiến tầm nhìn giảm tới mức hai người ở cạnh nhau cũng không nhìn ra nhau. Cách đó mười mét, khoảng hướng sáu giờ, một ngọn tháp bằng thép đã ngã xuống và nằm ngổn ngang bên đó. Ở phía xa hơn, Ra đa Doppler đang chớp nháy từng đám những điểm sáng trắng. Nếu chúng tôi ở lại đây chúng tôi sẽ bị bọn Mimic tràn qua.

Cái chân của người đàn ông bị kẹt bên dưới cái xe bị lất. Hắn ta là một gã cơ bắp, và một cái máy quay phim to được đeo trên cái cổ còn to hơn cả cổ tôi. Đó là Murdoch, một nhà báo đã đứng bên cạnh Rita chụp ảnh trong buổi thể hình.

Rita cúi xuống và kiểm tra chân anh ta. “Tôi tưởng anh cố đứng ngoài chiến trường cơ mà.”

“Đó là một pose ảnh đẹp, Thượng Sĩ. Chắc chắn nó sẽ giành được giải Pulitzer, nếu tôi có thể chụp được nó. Nhưng mà không tính vụ nổ nhé.” Nhọ nồi cùng bụi bẩm bám đầy khóe miệng hắn ta.

“Tôi không biết cái này gọi là may mắn hay xui xẻo nữa.”

“Được gặp nữ thần trong Địa ngục thế này nghĩa là tôi vẫn còn may mắn chán,” hắn ta nói.

“Mảnh vỡ này đâm vào chân anh tương đối sâu đấy. Sẽ mất kha khá thời gian để đưa anh ra đây.”

“Tôi có những lựa chọn gì?”

“Anh có thể ở đây chụp ảnh tới khi Mimic nghiền nát anh ra, hoặc là tôi có thể chặt chân anh và đưa anh tới trạm xá. Chọn gì thì chọn đi.”

“Rita, chờ đã!”

“Anh có một phút suy nghĩ. Mimic sắp tới rồi.” Cô ấy dơ cao rìu lên, trông chả có vẻ gì là sẽ cho anh ta đủ sáu mươi giây.

Murdoch hít một hơi sâu. “Tôi có thể nhờ cô một chuyện không?”

“Chuyện gì?”

“Nếu tôi sống sót –– cô sẽ để tôi chụp một tấm ảnh nghiêm chỉnh của cô chứ? Không thè lưỡi ra, không ngón giữa?”

* * *


Quân Nhật và quân Mỹ gặp nhau sau hơn hai giờ kể từ khi đợt tấn công nổ ra. Trong khoảng thời gian đủ dài để mặt trời leo lên từ chân trời phương Đông lên và tỏa sáng chói lòa thẳng từ trên đỉnh đầu, những người lính trên mặt đất đã co cụm lại thành một thứ mà rốt cục bạn cũng có thể gọi là phòng tuyến. Đây là một trận chiến nham nhở, nhưng vẫn chưa đến mức tan tác. Vẫn còn rất nhiều người còn sống, vẫn cử động, vẫn chiến đấu.

Rita và tôi băng qua tàn tích của căn cứ.


5[]

Phòng tuyến di dời vào giữa Căn cứ tuyến Flower, tạo hình một hình bán nguyệt phình ra hướng về phía bờ biển. Lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ trụ lại tại trung tâm của vòng cung rách nát, nơi những đợt tấn công của kẻ thù bỏng rát nhất. Những người lính xếp chồng các bao cát, nấp sau mớ gạch vụn, và xối như mưa những đạn, tên lửa và câu chửi tục xuống đầu kẻ thù bất cứ khi nào có thể.

Nếu bạn vẽ một đường tưởng tượng từ chỗ những người lính Mỹ tới Đảo Kotoiushi, Sân huấn luyện #3 sẽ nằm ở chính giữa. Đó là nơi lũ Mimic tràn vào bờ. Bình thường thì lũ Mimic hành xử như tất cả trí khôn của chúng nó bị bỏ quên hết ở nhà. Những đợt tấn công bất ngờ không có trong từ điển quân sự của chúng. Và bạn có thể chắc chắn rằng điểm yếu của chúng –– con server hút đạn nhất –– sẽ bị bảo hộ nghiêm ngặt nhất, bị vây quanh bởi tầng tầng lớp lớp Mimic. Tên lửa đạn đạo chui sâu xuống đất và cắt xẻ nền đá, bom chùm nổ thành hàng ngàn quả bom bi, bom nhiên liệu xóa sổ mọi thứ gần chúng. Tất cả những công cụ phá hủy tối tân nhất của loài người đều vô dụng trước chúng. Hạ gục lũ Mimic cứ như đang gỡ bom hẹn giờ vậy; bạn phải gỡ từng miếng một theo đúng thứ tự chứ nếu không bạn sẽ bị thổi bay.

Chiến giáp của Rita và tôi trở thành một cặp đôi hoàn hảo, máu và cát. Mỗi chiếc rìu chiến hộ vệ cho lưng của người kia. Chúng tôi né những mũi giáo bay tới, xẻ dọc Mimic, đục lỗ trên bê tông bằng những mũi khoan phản lực Volfram cacbua. Tất cả hòng tìm kiếm con Mimic có thể kết thúc chuyện này.

Tôi đã thuộc nằm lòng quy trình: phá hủy cái ăng tên và những con backup để ngăn Mimic gửi thông tin về quá khứ. Tôi cứ tưởng tôi đã thành công trong vòng lặp #159, và có vẻ như Rita không nói dối. Thế nhưng chẳng hiểu tại sao mọi thứ lại bị reset lần nữa. Gần gũi hơn với Rita thêm một chút trong vòng lặp #160 này cũng vui đấy, nhưng đổi lại thì Tuyến Flower đã bị tàn phá. Khi tấm rèm tro bụi hạ xuống sẽ có hàng đống thương vong và thiệt mạng xuất hiện.

Tôi khá chắc là Rita có cách. Cô ấy đã trải qua nhiều vòng lặp hơn tôi, nên có lẽ cô ấy đã thấy cái mà tôi chưa thấy. Tôi nghĩ tôi đã trở thành một cựu binh, nhưng bên cạnh cô ấy tôi vẫn chỉ là một tay lính mới.

Chúng tôi đang đứng trên sân huấn luyện #3, dây thép gai chăng một phía, ba mặt còn lại vây bởi hàng rào lưới đã bị dày xéo. Mimic bao quanh chỗ này, đứng sít lại vai kề vai –– cứ như chúng thật sự có vai vậy. Không thể chống đỡ trọng lượng kinh khủng của Mimic, sàn bê tông nứt ra và vỡ vụn. Mặt trời bắt đầu lặn dần, vẽ nên những cái bóng hỗn độn dọc khắp nền đất nhấp nhô. Ngọn gió vẫn mạnh như ngày hôm qua, nhưng bộ lọc khí của Chiến giáp đã khử sạch mọi dấu vết từ biển khơi.

Rút cục thì nó đây, con Mimic server. Rita và tôi nhìn ra nó cùng một lúc. Tôi không biết tại sao chúng tôi lại nhận ra được nó, nhưng chúng tôi biết.

“Tôi không liên lạc được với đội hỗ trợ. Chúng ta sẽ không có sự trợ giúp từ không quân đâu.”

“Chuyện bình thường ấy mà.”

“Anh vẫn nhớ những gì phải làm chứ?”

Tôi gật đầu bên trong Chiến giáp.

“Vậy thì làm thôi.”

Cái sân chất đầy mười ngàn mét vuông Mimic đang chờ rìu chiến của chúng tôi tiễn chúng về miền cực lạc. Chúng tôi tiến về phía chúng.

Bốn cái chân dày cộm và một cái đuôi. Dù đã thấy Mimic không biết bao nhiêu là lần nhưng tôi vẫn không thể liên tưởng nó thành cái gì khác ngoài xác con ếch chết trôi. Nhìn bề ngoài thì chẳng cách nào phân biệt được con server và những con lính lác, nhưng Rita và tôi nhận biết được sự khác biệt.

Chúng ăn đất và nhả ra độc dược, để lại những vùng đất chết không có sự sống. Loài sinh vật trí tuệ ngoài hành tinh tạo ra chúng đã nắm vững công nghệ dịch chuyển trong không gian và biết cả cách gửi thông tin vượt thời gian. Giờ chúng đang chiếm lấy thế giới của chúng tôi và biến nó thành một bản sao của riêng chúng, mỗi cành cây, ngọn cỏ, đóa hoa, côn trùng, động vật và con người đều sẽ bị tuyệt diệt.

Lần này chúng tôi phải phá hủy con server. Không cho phép một sai lầm nào. Nếu chúng tôi không làm vậy, trận chiến này sẽ không bao giờ kết thúc. Tôi dồn hết quán tính vào chiếc rìu –– một nhát chém ngọt xớt trên ăng ten. “Được rồi!”

Đợt tấn công tới từ đằng sau.

Cơ thể tôi phản ứng trước khi tôi kịp suy nghĩ. Trên chiến trường, tôi khiến ý thức của mình cách ly khỏi công việc điều khiển cơ thể. Những tính toán lạnh lùng và công bằng của hệ điều hành trong tiềm thức chuẩn xác hơn những gì tôi tự làm rất nhiều.

Sàn bê tông dưới chân tôi nứt làm hai, thổi bay cát bụi lên không trung cứ như mặt đất bị nổ tung vậy. Chân phải tôi xoay sang để giữ thăng bằng. Tôi vẫn không nhìn thấy được thứ đang tấn công tôi. Không còn đủ thời gian để vung chiếc rìu chiến khổng lồ nữa.

Chân và tay tôi cử động để giữ nhịp độ khi trọng tâm tôi di động. Một cơn ớn lạnh chạy dọc cột sống, căng thẳng bất chợt giúp tôi có phản ứng né tránh cần thiết. Nếu xương sống của tôi được buộc chặt vào tấm giáp sau lưng thì giờ nó đã cọ xát đến nóng cháy rồi.

Tôi đẩy mạnh bằng cán rìu. Cú thụi đó chứa đựng sức mạnh tương đương với một mũi khoan phản lực. Trừ phi là vỏ giáp xe tăng, chẳng có nhiều thứ có thể kháng cự lại trước một đòn trực diện nặng 370 kí lô.

Đòn đánh chệch qua một bên. Fuck!

Một cái bóng di chuyển vào đáy mắt tôi. Không còn thời gian né tránh nữa. Tôi nín thở trước khi thọc vào bằng cây rìu. Đòn đánh đang tới. Đây rồi. Trong khoảnh khắc cơ thể tôi vút lên khỏi mặt đất, rồi tôi xoay tròn, thị giác chao đảo giữa trời và đất, rồi lại đất và trời. Tôi dừng xoay và chỉnh lại thế cân bằng chỉ bằng một thao tác trôi chảy. Chiếc rìu chiến đã sẵn sàng.

Và rồi, với một chân vẫn ở trên không, đứng tại đó, sừng sững một chiếc Chiến giáp đỏ rực bằng thép súng. Rita!

Có lẽ cô ấy đã đẩy tôi ra khỏi một đòn tấn công tôi không thấy được, hay có thể là do tôi vướng vào đòn tấn công của cô ấy. Nhưng cô ấy chắc chắn là người đã khiến tôi lật nghiêng trên mặt đất.

What the hell...?

Chiến giáp đỏ tươi nhún xuống lấy đà. Lưỡi rìu lóe sáng như chiếc lưỡi dao cạo. Tôi đã hiến dâng thể xác mình cho trận chiến. Một trăm năm mươi chín vòng lặp đã giúp nó có thể di chuyển dễ dàng, và nó đã làm được. Đòn đầu tiên lao tới bên hông, sượt qua tôi chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Tôi gạt đi đòn thứ hai, một cú xoay chết tiệt, bằng một nửa chiếc rìu chiến. Trước khi đòn thứ ba tới, tôi nhảy lùi lại và giữ khoảng cách tương đối giữa chúng tôi.

Tôi lại hít thở và tính huống thật sự bắt đầu.

“Cô đang làm cái quái gì thế?”

Rita từ từ bước về phía tôi, rìu chiến bị kéo lê đi, gần như quét xuống mặt đất. Cô ấy dừng lại, giọng cô ấy lanh lảnh vang lên trên đường dây liên lạc. Cái giọng cao vút, thanh nhã, chả phù hợp chút nào trên chiến trường.

“Thế anh nghĩ tôi đang làm gì?”

“Tôi thấy cô đang cố giết tôi!”

“Con người nhận được những thông tin từ Mimic qua những giấc mơ. Não bộ chúng ta là những cái ăng ten thu nhận những tín hiệu đó. Nhưng đó không chỉ là một chiều. Não bộ chúng ta cũng biến đổi –– chúng ta trở thành những cái ăng ten. Mặc dù tôi không còn bị lặp nữa, nhưng tôi vẫn còn kết nối với nó; tôi vẫn cảm giác được con Mimic server vì tôi vẫn còn là một chiếc ăng ten. Cơn đau đầu là tác dục phụ. Anh cũng có nó, phải không?”

“Cô đang nói cái gì thế?”

“Chính vì vậy vòng lặp lặp lại trong lần trước, kể cả khi anh đã hủy diệt hết mọi con backup. Anh không tiêu diệt chiếc ăng ten –– là tôi.”

“Rita, tôi không hiểu.”

“Chiều ngược lại cũng đúng. Nếu anh trở thành chiếc ăng ten, lũ Mimic vẫn sẽ quay ngược vòng lặp được. Tôi là ăng ten. Anh đã bị kẹt trong vòng lặp. Anh giết tôi, vòng lặp sẽ bị dừng. Tôi giết anh, mọi chuyện sẽ thành hiện thực. Mãi mãi. Chỉ có một trong hai chúng ta được thoát ra.”

Nghe chẳng hợp lý chút nào cả. Tôi là một tay lính mới bị kẹt trong vòng lặp mà tôi chẳng hiểu gì. Tôi cầu nguyện để có thể trở nên mạnh mẽ như chiến thần Valkyrie càn quét chiến trường mà tôi từng được thấy. Tôi biến bản thân thành xác chết không biết bao nhiêu là lần, cố nối gót những bước chân của cô ấy, và sau 160 lần nỗ lực, rút cục tôi cũng tìm thấy cơ hội đứng bên cô ấy. Chúng tôi chiến đấu cùng nhau, cười đùa cùng nhau, ăn cơm và tán dóc cùng nhau. Tôi tự đẩy mình xuống Địa ngục để đến gần cô ấy, và giờ thế giới lại định chia cắt chúng tôi. Tôi không biết còn gì khốn nạn hơn thế này nữa. Những vòng lặp biến tôi thành chiến binh giờ lại đang chuẩn bị giết chết tôi.

“Nếu nhân loại có thể chiến thắng, chúng ta cần người có thể phá vỡ vòng lặp.” Giọng của Rita lạnh lùng và cao vút.

“Chờ đã, phải có cách––“

“Giờ chúng ta sẽ tìm ra người đó là Rita Vrataski hay Keiji Kiriya.”

Rita lấy đà.

Tôi ném khẩu súng trường đi, thời gian để ngắm và kéo cò khi đối mặt với Full Metal Bitch là không có. Tôi nắm chặt cán rìu bằng hai tay.

Trận chiến giữa chúng tôi kéo dài khắp căn cứ. Chúng tôi di chuyển từ sân huấn luyện #3 tới sân chúng tôi tập thể hình, giẫm nát những gì còn sót lại từ căn lều mà gã đại tướng từng dùng để né tránh ánh mặt trời gay gắt. Chúng tôi đi qua đống hoang tàn cháy âm ỉ còn sót lại của doanh trại Đại đội #17 và hai chiếc rìu đan vào nhau trước cổng nhà chứa máy bay. Hai lưỡi rìu cứ cái này lại sượt qua cái kia. Tôi cúi xuống để tránh đòn chính diện và tiếp tục chạy.

Những người lính khác dừng lại và nhìn chằm chằm vào chúng tôi khi chúng tôi đi qua. Mũ bảo hộ của họ dấu hết những biểu cảm trên khuôn mặt, nhưng cú sốc thì không thể che dấu. Và tại sao không? Đến tôi còn chả tin được chuyện này đang xảy ra. Tâm trí tôi liên tục phủ định, nhưng cơ thể tôi vẫn cứ tiếp tục vận hành trong vô thức, cứ như nó đã trở thành một cỗ máy nạp đầy năng lượng. Với những bước di chuyển đã được mài dũa tới hoàn hảo, tôi tung đòn chém tới.

Khi chúng tôi tới chiến tuyến của quân Hoa Kỳ, một ánh đèn xanh chớp nháy trên màn hình hiển thị của tôi ­­–– tín hiệu liên lạc tới Rita. Đường dây kết nối giữa Chiến giáp của chúng tôi khiến tín hiệu cũng được truyền tải tới tôi.

“Thủ trưởng Breeder gọi Calamity Dog.” Giọng đàn ông. Rita khựng lại một chút. Tôi chớp lấy cơ hội để kéo dãn khoảng cách giữa chúng tôi. Giọng nói kia tiếp tục, “Ngăn chặn kẻ thù thành công. Cô trông có vẻ hơi bận, cần giúp chứ?”

“Từ chối.”

“Có lệnh gì không?”

“Đừng để quân Nhật dính vào chuyện này. Tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho những gì xảy ra khi họ cản đường tôi.”

“Rõ. Đi săn vui vẻ. Thủ trưởng Breeder ngắt kết nối.”

Đường dây liên lạc đóng lại, và tôi hét vào mặt Rita. “Đó là tất cả những gì cô nói đấy hả? Hello? What the fuck!” Không một lời đáp lại. Chiếc chiến giáp đỏ rực lại tiếp cận tôi. Không có thời gian tán dóc. Tôi còn phải chiến đấu bảo vệ mạng sống của chính mình.

Tôi không biết liệu Rita thực sự định giết tôi hay chỉ là thử tôi. Tôi là một cỗ máy chiến đấu chính xác, loại bỏ hoàn toàn các thông tin dư thừa. Rita và những thứ phức tạp hơn những thông tin như chạy/ đỡ/ né đều phải chờ cái đã. Dù mục đích thực sự của cô ấy là gì, những đòn tấn công của cô ấy thực sự đều là chí mạng.

Cửa chính của căn cứ ở bên tay phải của tôi. Chúng tôi đang ở trên con đường mà từ trước đến nay tôi luôn chọn để lẻn vào căn cứ ở bên quân Hoa Kỳ để chôm một cây rìu của Rita. Chiến tuyến mà Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ đóng quân phòng hộ nằm ngay giữa hai chòi gác kiên cố.

Rita vung chiếc rìu chiến mà không thèm bận tâm ai hay cái gì có thể bị nó chém trúng. Tôi không thấy có lý do gì để đem người khác dính vào chuyện này, nên tôi bắt đầu lùi xa chiến tuyến. Căn tin #2 cách đó khoảng một trăm mét. Những mũi giáo đã khoan lỗ chỗ lên công trình, nhưng kỳ lạ thay, nó vẫn còn đứng vững. Đã cách chiến tuyến một khoảng kha khá –– nó sẽ hoạt động. Sau một nhịp tim, tôi đã chạy được cả trăm mét và đang hướng tới cánh cửa ở đằng xa trong tòa nhà.

Bên trong ánh sáng mờ ảo chạng vạng, chỉ đủ sáng để nhìn lờ mờ. Những chiếc bàn xếp ở hai bên, chất đống thành một rào cản tạm thời ngay trước lối vào đối diện với cái cổng tôi đi vào. Thức ăn và những chai nước tương đã dùng phân nửa nằm lăn lóc trên sàn nhà. Không hề có dấu hiệu của con người –– dù còn sống hay đã chết –– trong cả căn phòng.

Đây là nơi tôi đã ăn không biết bao nhiêu bữa trưa và nhìn Rita ăn. Nơi tôi đánh nhau với gã bồ tượng từ Đại đội #4 và chơi trò thi ăn với Rita bằng cả xô đầy mơ muối. Còn nơi nào tuyệt vời hơn để Rita và tôi định đoạt số phận của cả hai trong cuộc quyết đấu đây?

Những tia nắng màu da cam luồn qua những cái lỗ trên tường. Khi tôi nhìn chiếc đồng hồ bấm giờ bên cạnh màn hình hiển thị, tôi khó mà tin được tám tiếng đã trôi qua kể từ khi trận chiến bắt đầu. Nơi đây giờ đã đầy rẫy bụi. Tất nhiên bây giờ tôi cảm thấy Chiến giáp của tôi nặng như chì. Tôi không đủ cơ bắp để duy trì chuyện này. Pin năng lượng đã bị hút cạn và hệ thống bắt đầu tắt nguồn. Tôi chưa từng chiến đấu trong một trận chiến kéo dài đến mức này.

Chiếc chiến giáp đỏ rực của Rita rón rén bước vào trong căn tin. Tôi chặn một cú chém ngang bằng rìu; bộ khung trong Chiến giáp kêu kẽo kẹt. Nếu tôi dừng nó lại, moment xoắn từ bộ truyền động sẽ xé toạc Chiến giáp của tôi từ bên trong. Nỗi sợ hãi trước khả năng của Rita lại một lần nữa khiến tôi run rẩy –– và cô ấy đã học được cách đọc được mọi chiêu thức và hư chiêu của tôi.

Mỗi bước di chuyển trong trận chiến đều diễn ra trong tình trạng bán vô thức. Điều này khiến việc đọc được chúng trở nên khó khăn gấp đôi. Rita chỉ cách tôi nửa bước, đã xoắn người lại, sẵn sàng đánh bay tôi lên không ngay tại chỗ mà tôi sắp sửa tới.

Nó đã trúng đích. Như bản năng, tôi bước vào tầm đánh của chiếc rìu, né được toàn bộ sức phá hoại trọng yếu của cú chém. Giáp vai trái của tôi văng ra. Ánh đèn đỏ chớp nháy trên màn hình.

Rita đá tới, và không thể nào né được. Tôi bay ngược ra phía sau. Những tia lửa điện lẹt xẹt chớp khi Chiến giáp rơi xuống sàn bê tông vỡ nát. Tôi xoay một vòng và văng vào quầy hàng. Một cơn mưa những chiếc đũa trút xuống đầu tôi.

Rita đã bắt đầu cử động. Không còn thời gian để nghỉ ngơi. Đầu, vẫn ổn. Cổ, vẫn ổn. Thân trên, vai phải, tay phải –– mọi thứ ngoại trừ giáp vai trái đều vẫn hoạt động được. Tôi vẫn có thể tiếp tục chiến đấu. Tôi thả chiếc rìu ra. Thọc tay vào trong quầy tính tiền, tôi nhảy qua nó. Rita chém xuống, xé nát quầy tính tiền và đá bay một đống gỗ và kim loại.

Tôi đang ở trong bếp. Trước tôi là một chiếc bồn rửa khổng lồ bằng thép không rỉ và một cái bếp gas công nghiệp. Chảo rán và nồi lớn đủ để luộc chín cả một con lợn đang được treo trên tường. Từng chồng dao dĩa nhựa cao tới trần nhà. Những chiếc khay xếp thành hàng hẹp chứa những bữa sáng còn đang dang dở, giờ nằm yên lạnh lẽo.

Tôi lùi lại, làm rơi mấy cái khay xuống sàn nhà, tạo thành một đống bầy nhầy của thức ăn và nhựa cứng. Rita vẫn đang tới. Tôi ném một cái nồi về phía cô ấy và tung một đòn trực diện. Âm thanh vang lên như tiếng cồng chiêng khi nó nảy ra khỏi chiếc mũ bảo hộ đỏ màu cherry. Rõ ràng từng đó là chưa đủ để cản cô ấy lại. Đáng ra tôi nên thay bằng cái bồn rửa bát. Với một cú vung rìu, Rita hủy diệt phân nửa quầy hàng và một cột nhà bằng bê tông gia cố thép.

Tôi lùi lại xa hơn nữa –– chạm vào tường. Tôi té xuống sàn khi một cú chém ngang tàn bạo bổ về phía tôi. Khuôn mặt của gã vận động viên thể hình, vẫn cười tươi ngờ nghệch ở chỗ bếp, hứng chiêu đó hộ tôi. Tôi lao tới phía chân Rita. Cô ấy nhảy ra. Tôi để quán tính đẩy tôi quay về đống đổ nát ở quầy tính tiền. Chiếc rìu của tôi vẫn ở ngay chỗ trước đó tôi đặt nó.

Cầm lên món vũ khí mà bạn đã bỏ lại chỉ có thể có một nghĩa: bạn đã sẵn sàng chiến đấu trở lại; không ai lượm món vũ khí họ không định dùng. Rõ ràng rằng tôi không thể mãi mãi chạy trốn. Nếu Rita thật sự muốn giết tôi –– và đến giờ tôi mới bắt đầu nghĩ rằng cô ấy sẽ làm thật –– vậy thì chẳng còn đường thoát nào khác. Né tránh từng đòn tấn công một đã khiến Chiến giáp của tôi kiệt quệ. Đây là lúc để xốc lại tinh thần.

Có một chuyện tôi không cho phép bản thân mình quên đi. Thứ tôi đã tự hứa với mình từ lâu trước khi tôi tìm ra cách thoát ra khỏi vòng lặp này. Ẩn dưới chiếc găng tay ở tay trái là con số 160. Từ khi con số trên đó chỉ mới 5, tôi đã quyết định mang hết những gì tôi có thể học theo tôi tới ngày tiếp theo. Tôi sẽ không bao giờ chia sẻ bí mật về những con số đó với bất kỳ ai. Rita không, Yonabaru không, Ferrell, người huấn luyện cho tôi vô vàn lần cũng không. Chỉ có tôi biết nó có nghĩa là gì.

Con số đó là người bạn thân nhất của tôi, và chỉ cần nó còn ở đó, tôi không còn lo sợ cái chết. Dù Rita có giết tôi cũng không sao. Tôi sẽ không bao giờ đi xa được tới thế này nếu không có cô ấy. Còn gì hợp lý hơn khi báo đáp vị cứu tinh của tôi bằng cái chết của chính tôi?

Nhưng nếu tôi từ bỏ tại đây, mọi thứ sẽ kết thúc. Dũng khí tôi gom góp được trên hòn đảo bị bom oanh tạc đó. Những giọt máu tôi hít vào phổi. Cánh tay tôi để lại trên mặt đất. Tất cả những vòng lặp chết tiệt. Chúng đều sẽ tan biến như khói súng phả ra từ nòng súng. 159 trận chiến chỉ tồn tại trong đầu tôi sẽ ra đi mãi mãi trong vô nghĩa.

Nếu tôi đã cố gắng hết sức và thất bại thì đành chịu vậy. Nhưng tôi rõ ràng không định chết mà không chiến đấu. Rita và tôi rõ ràng đều nghĩ giống nhau. Tôi hiểu cô ấy đang phải trải qua chuyện gì. Địa ngục, cô ấy và tôi là hai người duy nhất trên cái hành tinh chết tiệt này hiểu được. Tôi bò trên mọi mét vuông đất trên Đảo Kotoiushi hòng tìm cách sống sót, cũng giống như những gì Rita đã làm trên chiến trường nào đó ở Hoa Kỳ.

Nếu tôi sống sót, cô ấy sẽ chết, và tôi sẽ không bao giờ tìm lại được ai đó giống như cô ấy nữa. Nếu cô ấy sống, vậy tôi sẽ phải chết. Dù cố suy nghĩ bao nhiêu lần thì cũng không tồn tại lối thoát nào khác. Một trong hai người bọn tôi phải chết, và Rita không muốn nói chuyện để giải quyết. Cô ấy muốn để kĩ năng giữa hai người bọn tôi quyết định. Cô ấy chọn cách thảo luận bằng sắt thép, và tôi phải đưa cho cô ấy một câu trả lời.

Tôi cầm chiếc rìu lên.

Tôi chạy tới giữa căn tin và kiểm trang trọng lượng của nó. Tôi cảm thấy bản thân đang ở trong tình cảnh gần như y hệt hồi thi ăn mơ muối. Cuộc đời thật nực cười nhỉ? Chỉ mới ngày hôm qua thôi, vậy mà tôi có cảm giác như là từ kiếp trước. Rita cũng đã hạ gục tôi trong trận. Tôi nghĩ công bằng mà nói cô ấy có tài năng thiên phú trong thi thố.

Chiếc Chiến giáp đỏ au bước một bước về phía trước, chăm chăm nhìn tôi. Cô ấy đứng ngay mép tầm với của chiếc rìu, thứ hung khí sáng bóng nắm chặt trong tay.

Những âm thanh chiến đấu bên ngoài tràn vào trong căn tin câm lặng. Những vụ nổ như những tiếng trống xập xình đằng xa. Đạn nổ ầm vang trên bầu trời là những âm cao của sáo. Những khẩu súng trường tự động thì đánh những bản gõ phách ngắt quãng. Rita và tôi cùng nhau gõ vang những tiếng chuông làm từ Volfram cacbua.

Không một thính giả nào đứng tại căn tin ngập tràn phế tích này. Từng chồng bàn và ghế đổ lăn lóc là những khán giả duy nhất, yên lặng thưởng thức điệu nhảy chết chóc giữa hai Chiến giáp đỏ rực và màu cát. Chúng tôi di chuyển theo hình trôn ốc, khi Rita xoay, cô liền để lại một vệt dài trên sàn bê tông. Chúng tôi nhảy múa trong một buổi ballet chiến tranh, bao bọc bởi thứ được cho là đỉnh cao khoa học của nhân loại, hai thanh vũ khí hung tàn ngâm nga bài điếu ca ngàn tuổi.

Lưỡi rìu của tôi đã mẻ và cùn. Chiến giáp của tôi khảm đầy những vết xước, pin năng lượng chẳng còn lại bao nhiêu. Cơ bắp của tôi lúc này chỉ hoạt động dựa vào ý chí.

Một vụ nổ kinh hoàng làm rung chuyển cả căn tin. Chúng tôi nhảy lên trước tiếng nổ.

Tôi biết đòn tiếp theo của cô ấy sẽ là một đòn chí mạng. Không thể nào tránh được nó. Không còn thời gian suy nghĩ nữa –– suy nghĩ là để dành khi huấn luyện. Chiến trường chỉ có hành động. Kinh nghiệm thấm đẫm từng centimet trên cơ thể tôi qua 159 trận chiến hướng dẫn từng động tác của tôi.

Rita đưa chiếc rìu ra sau, chuẩn bị vung tới. Rìu của tôi đáp trả từ bên dưới. Hai lưỡi rìu khổng lồ đan vào nhau, xé tan từng mảnh giáp.

Chỉ có một sự khác biệt duy nhất giữa tôi và Rita. Rita học chiến đấu với Mimic một mình. Tôi học chiến đấu với Mimic bằng cách quan sát Rita. Thời điểm chính xác mà cô ấy vung rìu, bước tiếp theo của cô ấy –– hệ điều hành trong tôi đều đã thu hết chúng lại. Tôi biết rõ hành động tiếp theo của cô ấy. Đó là lý do cú chém của Rita chỉ sượt qua tôi, còn cú chém của tôi thì xé toạc chiến giáp của cô ấy.

Một cái lỗ mở ra trên bộ giáp màu đỏ ối.

“Rita!”

Chiếc rìu chiến run rẩy trong tay cô ấy. Chiến giáp của Rita đã hoạt động một cách tối ưu trong việc loại bỏ hết những mệnh lệnh không chủ đích do cơn rối loạn trong cơ bắp của cô ấy. Cán rìu volfram cacbua cọ xát lẹt xẹt với găng tay bằng sắt. Máu, dầu nhớt và vài loại chất lỏng chưa xác định rỉ ra từ vết nứt toang hoác trên giáp của cô ấy. Khung cảnh đó quen thuộc đến kỳ quái với tôi, và lại một cơn khủng hoảng nữa tràn về. Cô ấy vươn tay ra và mò mẫm trên giáp vai của tôi. Tín hiệu liên lạc truyền tới. Giọng của Rita vang vọng trong mũ bảo hộ của tôi.

“Anh thắng rồi, Keiji Kiriya.” Chiến giáp đỏ au tựa sát vào tôi. Giọng của Rita khô khốc và tràn ngập đau đớn.

“Rita –– tại sao?”

“Tôi đã biết chuyện này từ lâu rồi. Kể từ khi tôi nhận được tín hiệu của Mimic lần đầu tiên. Trận chiến luôn kết thúc.”

“Cái gì? Tôi không ––“

“Anh là người khiến vòng lặp này kết thúc.” Rita ho sù sụ, âm thanh cao tần vang vọng trong đường dẫn.

Cuối cùng tôi cũng hiểu ra. Khi tôi gặp Rita vào ngày hôm qua, cô ấy đã quyết định bản thân sẽ là người phải chết. Tôi không hề nhận ra chuyện này vào lúc đó. Tôi nghĩ tôi chỉ vô tình chọn sai phương hướng. Tôi đáng ra phải cố tìm cách để cứu cô ấy, vậy mà tôi lại để ngày hôm đó trượt qua kẽ tay.

“Tôi xin lỗi, Rita. Tôi –– tôi không biết.”

“Đừng xin lỗi. Anh thắng rồi.”

“Thắng ư? Chúng ta có thể... cứ lặp lại chuyện này không? Chúng ta có thể sẽ không bao giờ thoát ra khỏi vòng lặp, nhưng chúng ta sẽ ở bên nhau. Mãi mãi. Chúng ta có thể ở bên nhau còn dài hơn cả một đời người. Mỗi ngày đều sẽ là một trận chiến, nhưng chúng ta có thể xử lý trận chiến đó. Nếu tôi phải giết một ngàn con Mimic, một triệu, tôi vẫn sẽ làm. Chúng ta sẽ làm chuyện đó cùng nhau.”

“Mỗi buổi sáng anh sẽ thức dậy cùng với một Rita Vrataski không biết rằng anh có tồn tại.”

“Tôi không quan tâm.”

Rita lắc đầu. “Anh không có quyền lựa chọn. Anh phải phá vỡ vòng lặp trước khi chuyện xảy ra với tôi xảy ra với anh. Kết thúc mớ quỷ sứ này khi anh còn có thể.”

“Tôi không thể hy sinh cô vì điều đó.”

“Keiji Kiriya mà tôi biết sẽ không hy sinh cả nhân loại chỉ vì bản thân mình.”

“Rita ––“

“Không còn nhiều thời gian nữa. Nếu như anh có gì muốn nói, cứ nói đi.” Chiếc chiến giáp đỏ rực chùng xuống.

“Anh sẽ ở bên em tới khi em chết. Anh –– anh yêu em.”

“Tốt lắm. Em cũng không muốn chết một mình đâu.”

Khuôn mặt cô ấy nấp sau chiếc mũ bảo hiểm, và tôi mừng vì điều đó. Chẳng may nếu tôi nhìn thấy những giọt nước mắt của cô ấy, tôi sẽ không bao giờ kết thúc được vòng lặp và để mặc cô ấy mãi mãi. Ánh tà dương, đỏ và âm ỉ nơi phương trường phía Tây, phủ lên Chiến giáp màu đỏ rực ấy, bao bọc nó trong vầng hào quang rực rỡ màu hồng ngọc.

“Trận chiến dài thật, Keiji. Đã là hoàng hôn rồi.”

“Đẹp thật đấy.”

“Tên khốn ủy mị.” Trong giọng cô ấy pha lẫn tiếng cười. “Em ghét bầu trời màu đỏ.”

Đó là những lời cuối cùng của cô ấy.


6[]

Bầu trời lại sáng.

Rita Vrataski đã chết. Sau khi tôi giết con Mimic server và dọn sạch đám lâu la, họ ném tôi vào trại giam. Họ nói đó là do sao nhãng nhiệm vụ. Do mặc kệ mệnh lệnh từ bộ chỉ huy, tôi đã đặt đồng đội mình vào tình thế nguy hiểm. Không hề đề cập tới chuyện bộ chỉ huy chả đưa ra cái mệnh lệnh chó gì. Họ đang cuống cuồng tìm người để gán trách nhiệm về cái chết của Rita, và tôi không thể trách họ vì muốn tìm một con cừu thí mạng.

Tòa án quân sự kéo dài ba ngày sau khi họ nhốt tôi lại; tôi được thả trắng án. Cuối cùng, thay vì gán trách nhiệm, họ quyết định gán cho tôi một cái huy chương.

Một vị đại tướng, người điều động đợt tập thể hình, vỗ vỗ sau lưng tôi và khen ngợi về những gì tôi đã làm. Mắt ông ta cứ đảo liên hồi khi nói tới chuyện đó. Tôi muốn hét vào mặt ông ta rằng ông cứ nhét thẳng cái huy chương này vào mông nếu như ông thấy ngứa đít, nhưng rút cục tôi cũng kìm lại được. Cái chết của Rita là trách nhiệm của tôi. Chẳng có nghĩa lý gì khi đổ lên đầu ông ấy.

Chiếc huy chương là cái Mệnh lệnh của Valkyrie, được trao cho những người lính giết nhiều hơn một trăm con Mimic trong một trận chiến. Thứ vinh dự vốn dĩ được tạo ra cho một người lính đặc biệt nào đó. Cách duy nhất để nhận được một vinh dự cao cả hơn là chết trong một trận chiến –– như Rita đã làm.

Tôi thật sự đã giết một đống tên khốn kiếp. Nhiều hơn tất cả số con mà Rita đã giết cộng lại chỉ trong một trận chiến. Tôi không nhớ rõ chuyện gì đã xảy ra sau khi tôi hủy diệt con server, nhưng hình như tôi đã tìm thấy pin năng lượng thay thế cho bộ giáp của tôi và tự mình thủ tiêu phân nửa số Mimic tấn công Chiến tuyến Flower.

Công cuộc tái kiến thiết của căn cứ đang được thúc đẩy tới tần suất cao. Một nửa số tòa nhà trong căn cứ đã bị thiêu rụi, và ngổn ngang dưới đất là một đống đổ nát vĩ đại. Doanh trại của Đại đội #17 đã sụp đổ, và cuốn tiểu thuyết kỳ bí tôi chưa kịp đọc hết đã hóa thành tro bụi.

Tôi lang thang vô định khi người ta vội vã ngược xuôi qua căn cứ.

“Chiến đấu như một tên điên sao? Đó là việc một gã anh hùng ngực gắn huy chương làm à?”

Giọng nói rất thân quen. Tôi quay đầu lại vừa kịp lúc để nhìn thấy một cú đấm bay thẳm vào mặt tôi. Chân trái của tôi tự động thay đổi vị trí. Tôi không có thời gian suy nghĩ. Tất cả những gì tôi có thể làm là quyết định ở trong đầu xem có nên tung đòn phản công hay không. Nếu tôi gạt công tắc lên, phản xạ được trui rèn qua 160 vòng lặp sẽ khởi động, khiến cơ thể tôi tự động di chuyển như một con rô bốt trong nhà máy.

Tôi có thể chuyển dời trọng tâm sang chân trái, đỡ cú đấm bằng vai và túm lấy khuỷu tay của gã tấn công tôi khi tôi bước tới bằng chân phải và thúc khuỷu tay của tôi vào hông hắn. Thế là quá đủ để giải quyết cú đấm đầu tiên của hắn. Tôi mô phỏng tình huống trong đầu và nhận ra tôi sẽ đánh gãy xương sườn của kẻ tấn công tôi trước khi tôi kịp nhận ra hắn ta là ai. Tôi quyết định đưa mặt ra đỡ đòn. Tình huống tệ nhất là tôi phải đi qua đi lại với một con mắt đen ngòm mà thôi.

Không ngờ nó đau đến thế. Lực chấn động đánh tôi ngã ngửa, mông rớt xuống đất. Ít nhất không có gì bị gãy –– tất cả đều đúng như kế hoạch. Nếu quân đội thất bại thì sau này tôi đi làm nghề trở thành bao cát thịt cho người khác cũng được đấy.

“Tao không biết mày trở thành một thiên tài từ khi nào, nhưng mày rõ là một thằng khốn tự mãn.”

“Để anh ta yên đi.”

Yonabaru đứng trước mặt tôi. Hắn ta trông cứ như muốn đấm thêm vài cú nữa, nhưng một người phụ nữ mặc áo sơ mi của lính đã bước ra ngăn hắn ta lại. Cánh tay trái của cô ấy đã được bó bột. Cô ấy chắc là bạn gái của Yonabaru. Thật mừng khi cả hai còn sống.

Có một tia sáng lóe lên trong mắt cô gái đó khác hoàn toàn so với những gì tôi từng thấy, cứ như cô ấy đang nhìn một con sư tử vừa mới sổ lồng. Đó là ánh mắt khi nhìn một thứ không phải con người.

“Nhàn nhã đi bộ cứ như chưa có chuyện gì xảy ra –– nhìn cái mặt mày khiến anh phát ói.”

“Em bảo rồi, để anh ta yên đi.”

“Fuck hắn.”

Trước khi tôi có thể đứng dậy, Yonabaru đã đi ra. Tôi từ từ đứng dậy và phủi bụi. Hàm của tôi bị thương không nặng lắm. Chẳng là gì khi so sánh với sự trống rỗng Rita để lại sâu bên trong tôi.

“Hắn ta đấm hơi bị đẹp đấy,” giọng nói từ đằng sau. Đó là Ferrell. Anh ấy trông y như mọi khi, chỉ khác là hình như có thêm một hai nếp nhăn trên trán.

“Anh thấy rồi à?”

“Xin lỗi, anh không kịp ngăn hắn lại.”

“Không sao đâu.”

“Đừng có trách hắn. Hắn đã mất rất nhiều bạn bè trong ngày hôm đó. Hắn chỉ cần chút thời gian để bình tĩnh lại.”

“Em có thấy Nijou –– phần còn lại của cậu ấy.”

“Đội của chúng ta mất mười bảy người. Người ta bảo có ba ngàn thương vong, nhưng chưa có số liệu thống kê chính thức. Chú mày có nhớ cô nàng trẻ trung xinh xắn điều hành Căn tin #2 không? Cô ta cũng không qua khỏi.”

“Ồ.”

“Không phải lỗi của chú mày, nhưng chuyện đó cũng chả quan trọng trong thời điểm như lúc này. Chú mày thấy đấy, chú mày cho cô nàng của Yonabaru một cú đá không nhẹ đâu. Đấy là so với những người khác.”

“Những người khác?”

“Những người khác.”

Thêm Ferrell vào danh sách những người tôi đi qua trong trận chiến. Ai mà biết tôi còn làm gì khác nữa. Tôi cũng không nhớ rõ lắm, nhưng rõ ràng là tôi đã biến thành một tên điên khát máu trên chiến trường. Có lẽ tôi là người đã khiến bạn gái của Yonabaru phải bó bột cánh tay. Thế nên hắn ta mới cáu bẳn như vậy. Một cú đá từ chiến giáp có lẽ là hơi quá. Chết tiệt, bạn có thể chảy máu nội tạng ấy chứ.

Tôi hy vọng Yonabaru sẽ nhớ tới nỗi sợ đó. Nó sẽ khiến hắn ta sống sót trong trận chiến tiếp theo. Hắn ta có thể sẽ không còn coi tôi là bạn nữa, nhưng với tôi hắn ta vẫn là một người bạn.

“Em xin lỗi.”

“Quên nó đi.” Ferrell rõ ràng không hề giận dữ. Nếu mà có gì khác, thì đó phải là vui mừng. “Ai dạy chú mày lái chiến giáp như vậy?”

“Anh đấy, Trung sĩ.”

“Anh nghiêm túc đấy, thằng nhãi. Nói về huấn luyện dàn trận là một chuyện, nhưng cả cái quân đội Nhật Bản này chả có ai có thể dạy chú mày chiến đấu như vậy.”

Trung sĩ Bartolome Ferrell đã trải qua nhiều trận chiến hơn bất cứ ai trong UDF. Anh ấy biết một chiến binh nghĩa là gì. Anh ấy hiểu rằng nếu tôi không đá anh ấy ra, anh ấy đã chết. Anh ấy biết rằng tay lính mới đứng trước mặt anh ấy là một chiến binh tuyệt vời hơn bất kỳ ai anh ấy có thể hy vọng để trở thành. Và anh ấy biết trong trận chiến, quân hàm duy nhất có giá trị là năng lực của bản thân.

Trung sĩ Ferrell là người chịu trách nhiệm xây dựng nền tảng những kĩ năng của tôi. Nhưng tôi không thể giải thích cho anh ấy, nên tôi không thử.

“Oh, tí thì quên mất. Có cô bé loắt choắt như chuột từ quân Hoa Kỳ muốn gặp chú mày.”

Shasta Raylle. Một Shasta Raylle tôi chỉ mới gặp lần đầu tại Nhà nghỉ trên không. Chúng tôi hiếm khi nói chuyện với nhau. Cái cô Shasta cho tôi mượn rìu chiến giờ chỉ còn là một mảnh ký ức hư ảo trong vòng lặp.

“Doanh trại tạm thời của đội #17 ở đâu? Và còn nhà chứa thì sao? Em muốn kiểm tra Chiến giáp của mình.”

“Vừa mới ra khỏi trại giam và chú mày liền muốn kiểm tra Chiến giáp? Quả nhiên là không tầm thường chút nào.”

“Chẳng có gì đặc biệt đâu.”

“Quân Hoa Kỳ đã lấy chiến giáp của chú mày đi. Nói mới nhớ, con chuột bé con ấy là người tới lấy nó.”

“Họ muốn làm gì với Chiến giáp của em?”

“Thượng cấp có kế hoạch của họ. Đừng ngạc nhiên nếu chú mày bị đưa tới Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ.”

“Thật chứ?”

“Họ cần người để thay thế vị trí của Valkyrie. Anh chắc chắn chú mày sẽ làm quen nhanh thôi.” Ferrell vỗ vào vai tôi và chúng tôi tách ra.

Tôi chạy tới doanh trại của bên quân Mỹ để tìm Shasta và Chiến giáp của tôi. Những doanh trại và con đường đều đã bị thiêu rụi nặng nề đến mức khó mà biết được từ bên nào là bên quân Nhật và từ chỗ nào là bên quân Mỹ. Kể cả những chòi gác và những gã cơ bắp đều không còn.

Tôi tìm thấy Chiến giáp của mình trong công xưởng của Shasta. Shasta cũng đang ở đó. Ai đó đã khắc dòng chữ “Killer Cage” (lồng giam sát nhân) vào giáp ngực. “Cage” –– đó là cách người Mỹ phát âm tên tôi. Tôi đoán giờ tôi cũng đã có một bí danh trong đường dây liên lạc của riêng mình. Họ không lãng phí quá nhiều thời gian. Đó là một cái tên hay dành cho một con lợn dành được tấm huy chương bằng cách giết những người bạn của hắn. Tôi phải cảm ơn tên nào nghĩ ra cái này. Mẹ kiếp cái thế giới này.

Shasta nhìn tôi khi tôi xem vết khắc. “Tôi đã cố gắng để ý quan sát, nhưng họ vẫn làm trò được. Xin lỗi.” Tôi có cảm giác cô ấy đang nói y hệt những lời Rita đã nói trước đây.

“Đừng lo. Họ bảo rằng cô đang tìm tôi à?”

“Tôi muốn đưa anh chìa khóa tới Nhà nghỉ Trên không.”

“Chìa khóa?”

“Đúng như Rita đã yêu cầu. Không ai được vào bên trong sau khi anh đi. Cũng không đơn giản khi cố ngăn người ta không vào đó trong ba ngày đâu, nhưng tôi có nhiều tài vặt mà.” Shasta đưa tôi chiếc chìa khóa. “Cứ mặc kệ mấy thứ ở cửa vào nhé.”

“Cảm ơn.”

“Giúp được anh là tốt rồi.”

“Tôi có thể nhờ cô một chuyện không?”

“Chuyện gì?”

“Cô có biết tại sao Rita lại sơn Chiến giáp thành màu đỏ không? Đó đâu phải là màu ưa thích của cô ấy. Tôi nghĩ có lẽ cô biết.”

“Cô ấy nói cô ấy muốn trở nên nổi bật. Tôi không chắc lắm khi có người lại muốn nổi bật khi ở trên chiến trường. Chỉ tổ biến mình thành mục tiêu thôi.”

“Cảm ơn. Nghe cũng hợp lý đấy.”

“Tôi đoán anh cũng muốn sơn cái của anh?” Tôi hẳn đã cau mày vì cô ấy đột nhiên nói thêm, “Xin lỗi! Tôi chỉ đùa thôi.”

“Không sao. Tôi có lẽ cần phải để ý hơn. Dù sao cũng cảm ơn vì chiếc chìa khóa. Tôi sẽ tới kiểm tra căn nhà nghỉ ngay đây.”

“Trước khi anh đi ––“

“Hử?”

“Không phải chuyện của tôi, nhưng tôi tự hỏi....”

“Chuyện gì?” Tôi hỏi.

“Anh là một người bạn cũ của Rita à?”

Tôi mím môi, vẽ nên một điệu cười méo mó.

“Xin lỗi, đáng ra tôi không nên hỏi.”

“Không, không sao. Thực ra, chúng tôi ––“

“Hử?”

“Chúng tôi chỉ vừa gặp gỡ.”

“Tất nhiên. Chúng tôi chỉ vừa mới tới căn cứ này mà. Thật là ngớ ngẩn khi hỏi vậy.”

Tôi để mặc Shasta ở đó và đi tới Nhà nghỉ Trên không. Tôi từ tốn mở cửa phòng, mặc dù tôi biết nó sẽ không làm phiền ai.

Một dải băng màu vàng in dòng chữ “BIOHAZARD” in bên trên căng chéo lối vào. Có một cái bình cứu hỏa gần chân tôi, và cặn của nó bao phủ khắp sàn nhà. Tôi đoán đây là mẹo vặt của Shasta. Căn cứ vẫn đang ngập tràn cát độc từ Mimic, và những nơi không có người sống và đang được khử trùng như Nhà nghỉ Trên không sẽ không nằm trong danh sách ưu tiên. Thông minh đấy.

Tôi bước vào bên trong. Không khí ngập mùi ẩm mốc. Mùi của Rita đã tan biến khỏi căn phòng. Không hề có thứ gì bị di chuyển khỏi nơi vốn có. Cái túi nylon đổ sụp, máy nghiền cà phê, và một chiếc bếp ga mini chỉ tổ nhấn mạnh chuyện cô ấy mới tới đây chẳng được bao lâu. Chúng là những dấu vết duy nhất chứng tỏ cô ấy đã từng ở đó. Gần như mọi thứ khác cô ấy sở hữu đều liên quan tới quân đội. Bộ pha cà phê là hành trang cá nhân duy nhất của cô ấy. Tất nhiên cô ấy không để lại cho tôi lời nhắn nào –– Full Metal Bitch làm gì có chuyện ủy mị như thế.

Cái cốc trên chiếc bàn thủy tinh vẫn giữ cốc Cà phê Rita đã pha. Tôi cầm cái cốc lên. Cà phê đen kịt và nguội ngắt. Nó đã nguội đi nhiều ngày trước rồi. Tôi lắc lắc tay, khiến mặt nước gợn sóng li ti. Đây là cách Rita đối mặt với sự cô đơn của chính mình. Giờ tôi đã hiểu

* * *


Em chỉ là một mảnh ghép hình trong bức tranh, và tôi là mảnh thay thế cho em. Thế giới không cần tới một người anh hùng lầm lỗi. Và giờ cái thế giới chết tiệt này lại sắp sửa đẩy anh tới chiến trường ngập máu và khói lửa. Nhưng em chưa hề ghét bỏ cái thế giới vì những gì nó đã làm với em.

Vậy nên anh sẽ không để thế giới này thua cuộc. Nó có thể khiến anh rơi vào vòng trầm luân giữa cả đàn Mimic, chẳng có gì khác ngoài chiếc Rìu Volfram Cacbua và một chiếc Chiến giáp chết mòn nhưng anh vẫn sẽ vượt qua. Anh sẽ bơi trong vũng máu ngập cả thắt lưng trong những cuộc tàn sát còn nhiều hơn tất cả những gì lính trong UDF từng thấy cộng lại, và anh vẫn sẽ không bị tổn thương. Anh sẽ huấn luyện cho tới khi anh biết rõ nano giây nào là lúc nên kéo cò, biết chính xác thời điểm để di chuyển từng bước. Anh sẽ không để mũi giáo nào gây tổn thương nghiêm trọng hơn những vết xước trên chiến giáp của anh.

Khi anh còn sống và còn thở, nhân loại sẽ không thất bại. Anh hứa với em đấy. Có thể phải mất cả thập kỉ, nhưng anh sẽ thắng trận chiến này vì em. Kể cả khi em không còn ở đây để thấy nó. Em là người duy nhất anh muốn bảo vệ, và em đã ra đi.

Những giọt nước mắt nóng hổi cứ chực trào ra khỏi mắt tôi khi tôi nhìn ô cửa kính nứt toác ra trên bầu trời, nhưng tôi sẽ không khóc. Không phải vì những người bạn tôi sẽ mất trong những trận chiến sắp tới. Là vì những người bạn tôi sẽ không thể bảo vệ được. Tôi sẽ không khóc cho tới khi trận chiến này kết thúc.

Qua ô cửa sổ tôi nhìn thấy bầu trời, xanh thẳm màu pha lê, trông như kéo dài tới vô tận. Một đám mây lờ lững trôi. Tôi cúi mặt nhìn thẳng về cửa sổ, và như một miếng bọt biển khô rang bị nhúng vào trong nước, cơ thể tôi như thu lấy bầu trời trong xanh mênh mông vào lòng.

Em ghét ở một mình, nhưng em lại tách biệt bản thân khỏi doanh trại, đi ngủ và thức giấc trong cô đơn, bởi em biết thật khó khăn khi đối mặt với những người bạn em biết rằng sẽ chết. Kẹt trong cơn ác mộng tàn nhẫn và không có hồi kết, suy nghĩ duy nhất trong em đều hướng về phía họ. Em không thể chịu nổi khi mất đi dù chỉ một người trong họ, dù họ là ai.

Màu đỏ là màu của em, là của em và chỉ của mình em. Nó nên yên nghỉ cùng với em. Anh sẽ sơn chiến giáp của mình bằng màu xanh của bầu trời, cái màu em bảo với anh là màu em yêu khi lần đầu đôi ta gặp gỡ. Tại nơi với cả triệu binh lính, anh sẽ nổi bật hơn hết thảy, một cái cột thu lôi hút lấy đòn tấn công của quân thù. Anh sẽ là mục tiêu của chúng.

* * *


Tôi ngồi đó một lúc, cầm lấy cốc cà phê cuối cùng cô ấy làm, pha cho người mà cô ấy cũng chẳng quen lắm. Cái mùi thoang thoảng của nó khuấy đảo trong tôi chút tâm tình bi thương và nhung nhớ khó có thể nguôi ngoai. Một chút mốc meo trắng xanh lượn lờ trên mặt cốc cà phê. Đưa chiếc cốc lên môi, tôi uống.


Lời bạt[]

Tôi thích trò chơi điện tử. Tôi đã chơi chúng kể từ khi tôi còn là thằng nhóc thò lò mũi xanh. Tôi chơi chúng dọc theo quá trình trưởng thành của bản thân. Nhưng kể cả sau khi đã thắng hàng tá game ở mức độ khó nhất, tôi không bao giờ xúc động đến mức nhảy lên ăn mừng. Tôi không bao giờ cười, khóc hay nhảy cẫng lên và dơ tay hình chữ V. Cơn phấn khích của tôi trôi lềnh bềnh như đá lạnh rơi xuống hồ, xoay tròn đâu đó sâu bên trong tôi.

Có lẽ đó chỉ là phản ứng mà tôi nhìn từ bên ngoài. Tôi đứng ở trên cao nhìn xuống và nói, “Sau bao nhiêu thời gian bỏ ra cho trò đó, tất nhiên mình phải thắng rồi.” Tôi nhìn thấy bản thân mình với nụ cười đểu cáng trên mặt –– một nụ cười kỳ cựu chỉ dành cho những người được họ coi trọng.

Kết cục không bao giờ thay đổi. Cụ già làng chả thể nói gì hay ho hơn những lời cũ rích mà ông ấy suốt ngày dùng. “Làm tốt lắm, XXXX. Ta chưa từng nghi ngờ về dòng máu anh hùng chảy trong huyết quản của con.” Chà trò đùa hay đấy, ông già. Chẳng có một giọt máu anh hùng nào trong người tôi đâu, nên cứ khen tôi đi. Tôi chỉ là một gã bình thường, và tự hào về điều đó. Tôi ở đây bởi vì tôi bỏ thời gian cho nó. Bằng chứng rõ ràng nhất là vết phồng rộp trên tay. Chả liên quan gì tới sự ngẫu nhiên, vận may hay sự kích hoạt năng lượng Wonder Twin của tôi. Tôi khởi động lại trò chơi cả trăm lần cho tới khi chiêu thức đặc biệt của tôi cuối cùng cũng trở nên hoàn hảo. Chiến thắng là điều tất nhiên thôi. Nên làm ơn, đừng nói mấy thứ nhảm nhí về anh hùng nữa.

Chuyện ấy bỗng dưng nảy ra trong đầu tôi khi tôi đang viết. Nếu không nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều người, cuốn tiểu thuyết này sẽ không bao giờ được ra lò. Đây là một câu chuyện đen tối, với những nhân vật chết liên tục, nhưng tôi vẫn vui vì chuyện đó.

Tôi muốn cảm ơn Yoshitoshi Abe vì đã miêu tả thật hoàn mỹ thế giới của cuốn tiểu thuyết trong những bức tranh minh họa của mình; tổng biên tập của tôi, Miyuki Matsumoto, người đã mang đến sự giúp đỡ tuyệt vời hơn mức cần thiết cho quyển sách; Sau đó là Takeshi Yamazaki của Glow vì bản thiết kế ấn tượng; Jun Masuda và những người bạn tuyệt vời của mình vì đã hỗ trợ kiểm tra tất cả những thứ về quân sự; và cuối cùng là Chōhei Kambayashi vì những lời góp ý sáng suốt. Ồ, Tí thì quên mất. Cảm ơn tất cả những cô bé và cậu bé ngoan ngoài kia đã gửi cho tôi mấy băng đạn đen thui nha.

—Hiroshi Sakurazaka


Theo dõi & Thanh chuyển trang

Bỏ theo dõilatest?cb=20190220103837&format=originalbộ truyện này
► Xem lại Toàn tập♬   All you need is kill   ♬► Xem tiếp Chương 1
Advertisement